QĐND - Đã nhiều năm rồi, tôi không còn có cảm giác Tết như ngày xưa nữa. Ngày xưa vui thích hơn nhiều. Ngày xưa, ấy là khi chúng tôi còn bé và ấy là khi ông bà ngoại của tụi tôi còn sống.
Tôi lớn lên ở ngoại ô miền biển. Nơi ấy chẳng giàu có, tấp nập như thành phố, nhưng cũng chẳng đìu hiu, heo hắt như ở làng quê xứ xa xôi. Lũ trẻ cùng thời với tôi lớn lên cùng với sự phát triển, mở rộng không ngừng của thành phố trên bước đường hội nhập. Và cùng với sự phát triển ấy, tuổi thơ chúng tôi mang theo nhiều sự đổi thay, buồn vui lẫn lộn.
Ngày ấy, hai anh em tôi lớn lên trong sự bao bọc, yêu thương của ông bà ngoại và các bác, các cậu, các dì. Vì hoàn cảnh công tác xa xôi, bố mẹ tôi ít có điều kiện về thăm các con. Mọi thương yêu, chăm chút của ông bà ngoại đều dành cho hai đứa cháu bé bỏng. Cuộc sống tuy không thật đầy đủ nhưng luôn đầy ắp tình yêu thương. Bao năm đã trôi xa, dù đi nhiều nơi, biết nhiều thứ, nhưng mỗi khi tháng Chạp về, lòng tôi lại nao nao nhớ Tết quê năm nào.
Tết quê rộn ràng từ những ngày đầu tháng Chạp. Khi cái rét thổi hun hút, chòm khói bàng bạc của lũ trẻ chăn trâu hun lên sưởi ấm đã nghi ngút đầu làng. Trái bưởi vàng ruộm đung đưa trước gió chờ ngày được bàn tay bà khéo léo cắt xuống. Mọi nhà đã tất bật chuẩn bị đón Xuân. Tôi vẫn nhớ như in cái cảm giác được cùng ông ngoại chuẩn bị gói bánh chưng. Đã thành lệ, năm nào cũng vậy, ông bà tôi đều nhận phần việc gói bánh chưng cho các con, các cháu vui Tết. Sáng 27, 28 Tết, bà ngoại tôi dậy từ sớm, vo gạo, chuẩn bị lá, nấu đậu xanh. Đậu xanh phải chọn loại mỡ màng, từng hạt đậu được vo kỹ, đãi sạch vỏ và đồ chín. Sau đó, bà cẩn thận nắm thành từng nắm tròn, to. Đậu xanh được nắm khi còn nóng thì mới có độ kết dính và đến khi gói bánh mới thơm ngon.
 |
Gói bánh chưng quả là việc làm thích thú nhất mà một đứa trẻ như tôi, ngày ấy vẫn thường tấm tắc khen sự khéo léo của ông ngoại. Ông đều tay cắt lá, múc gạo, rải thịt, đậu. Cứ lần lượt như thế. Tấm bánh vuông vức, xanh của lá, vàng nhạt của lạt cứ thế ra đời. Quả là một sự công phu, tỉ mẩn. Sau khi gói hết lượt bánh to, đủ số lượng chia đều cho các con cháu, ông ngoại tôi không quên gói cho chúng tôi những chiếc bánh nhỏ xinh mà tôi vẫn quen gọi là “bánh mụi”. Tuy là “bánh mụi” nhưng chiếc của tôi gần bằng cả bánh chính. Ấy là vì cái tính tham lam con trẻ, đã dành sẵn cái lá này, bát gạo này, miếng thịt kia, mà phải là miếng thịt to, nhiều nạc, để tí nữa ông gói cho con nhé.
Trong khi ông gói bánh, bà ngoại tôi đã sắp sẵn nồi nấu bánh. Chiếc nồi quân dụng to lắm, bố mẹ tôi mang tận trong Nam ra. Cái nồi không có nắp. Từ hôm trước, ông đã bện sẵn cái thụt rơm. Khi bánh gói xong và được xếp ngay ngắn trong nồi, ông bà cẩn thận đặt chiếc thụt rơm ấy lên miệng nồi. Sau đó lấy cái chậu nhôm to, đổ nước vào trong ấy và đặt lên trên. Thế là vừa xong nắp đậy. Với “cái nắp” độc đáo này, miệng nồi không những được bịt kín mà ông lại còn có sẵn nước nóng chế thêm vào nồi bánh khi trong nồi nước đã vơi. Quả là một sáng kiến hay. Dù còn bé lắm nhưng năm nào tôi cũng thức gần như suốt đêm để ngồi trông bánh với bà. Căn bếp bé nhỏ nhưng ấm áp, khói củi làm mắt tôi cay xè, khói nhuốm đen mái nhà, khói lan tỏa cả gian phòng, ám vào áo quần tôi. Bà tôi cười hiền từ vuốt những lọn tóc tơ lòa xòa trên khuôn mặt tôi. Chẳng hiểu bà đã cất những củ khoai lang đầu tháng Mười ở đâu mà giờ đưa ra nướng cho tôi ăn để chống lại cơn buồn ngủ ập đến bên hàng mi. Cái mùi khoai nướng thơm lạ. Nó cứ len lỏi, ám ảnh tâm trí tôi suốt những năm tháng sau này. Ánh lửa bập bùng ấp ôm cái nồi quân dụng to vật vã, những chiếc bánh chưng xanh xếp ngay ngắn. Lá dong dậy mùi. Hương nếp thơm nồng nàn. Ấy là khi bánh chín. Ông bà tôi vớt bánh và nhẹ nhàng dùng chiếc thớt nhỏ ép cho hết nước, vuốt lại cho vuông vắn để hôm sau, khi con cháu về sẽ chia cho từng nhà.
Ngày Tết, có được cặp bánh chưng cúng tổ tiên do chính bàn tay mình làm ra thật không gì quý bằng. Từng hạt gạo, cái lá, miếng thịt đều là công sức chắt chiu, gìn giữ của cả nhà. Ông bà tôi luôn dạy con cháu biết trân trọng từng hạt "ngọc thực" do trời đất ban tặng. Từ ngày ông mất, rồi bà cũng theo bước tổ tiên, đại gia đình tôi không còn giữ được thói quen gói bánh chưng ngày Tết nữa. Giờ thì mạnh nhà nào nhà ấy gói, không đơn giản hơn thì đặt ngoài hàng. Công việc bộn bề đã cuốn mỗi người đi một nơi. Vẫn tiếc nuối lắm cái truyền thống ông bà, bố mẹ bao năm vun đắp, gìn giữ. Nhưng cuộc sống đổi thay. Thôi thì đành vậy.
Nhớ lại trước đây, ông tôi vẫn ước ao một ngày nào đó, mỗi nhà đều có chiếc xe gắn máy riêng để ngày Tết, ngày lễ đi thăm viếng họ hàng cho tiện. Giờ nhà nào cũng có vài ba chiếc xe gắn máy, có cậu, có dì còn sắm được cả ô tô. Vậy mà ông bà lại không còn để hưởng niềm vui ấy. Mỗi lần về lại nhà ông bà, thấy xe cộ xếp đầy sân, tôi lại chạnh lòng. Căn nhà rộn rã tiếng cười của ông bà ngày nào giờ hiu hắt, rêu phong cỏ úa. Những đứa cháu năm xưa chạy lon ton bên ông bà, kỳ kèo xin cái bánh, cái kẹo và đòi tiền mừng tuổi... giờ đã khôn lớn. Các con, các cháu một năm đôi ba lần tụ họp, sửa sang lại mái ấm xưa nhưng vẫn không thể ngăn nổi sự tàn phá của thời gian. Tường nhà rêu đã phủ đầy. Đôi chỗ đã tróc lở vôi vữa. Chiếc giếng nhỏ bên lối đi trước hiên nhà đã cạn nước, dương xỉ mọc xanh um. Đứa em tôi đưa mắt nhìn xa xăm: “Tết giờ chẳng vui như ngày còn ông bà nữa, chị nhỉ? Ước gì lại được bé nhỏ như ngày xưa”. Ừ, ước gì lại được như thế. Để mãi bé nhỏ, để không phải lớn lên với bao lo toan cuộc đời, để Tết vẫn mãi vui như ngày thơ bé.
Tản văn của NGUYỄN THÀNH TRUNG