Là lớp người tuổi con, tuổi cháu của ông, khi chưa được gặp gỡ, nói chuyện với ông, chúng tôi đã được nghe lớp người đi trước nói về ông với nhiều điều đáng quý, đáng phục. Ông là người con của dòng họ Nguyễn Khắc danh tiếng học giỏi, khoa bảng, làm thầy, làm quan hay nghệ sĩ đều xuất sắc. Riêng ông có cha làm công chức chế độ Pháp thuộc, được ăn học đến nơi đến chốn, đỗ đạt cao và sớm có được công ăn việc làm trong bộ máy công chức.

Vậy mà người “công chức của Tây” ấy lại tham gia cách mạng chống thực dân Pháp. Học vấn cao, tiếng Pháp giỏi, ngay sau ngày ta giành được chính quyền, Nguyễn Khắc Tiếp được chọn làm phóng viên Thông Tấn xã Việt Nam, rồi Đài Tiếng nói Việt Nam. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn mới cùng yêu cầu phát triển mới của Quân đội ta, ông được điều vào Quân đội, làm phóng viên Báo QĐND từ ngày đầu Báo thành lập (tháng 10-1950).

Nhà báo lão thành Nguyễn Khắc Tiếp (bên phải) và nhà báo lão thành Phạm Phú Bằng lúc sinh thời. Ảnh: VIỆT TRUNG 

Nghiệp phóng viên chiến trường của ông bắt đầu với việc liên tục đến với các mặt trận nóng bỏng, cùng kề vai sát cánh với cán bộ, chiến sĩ ta trong khói lửa, cùng chịu “ăn đói mặc rét” đồng cam cộng khổ với anh em. Để rồi, như một tất yếu, ông được chọn là một trong hai phóng viên có mặt tại các chiến hào viết bài cho tờ Báo QĐND xuất bản tại Mặt trận Điện Biên Phủ.

Làm phóng viên mặt trận Điện Biên Phủ là thế nào? Lật giở lại các trang báo những ngày tháng ấy, chúng tôi được đọc những bài viết của ông về những trận đánh ác liệt của Đại đoàn 308, Đại đoàn 316... tại Him Lam, Đồi A1, Cánh đồng Mường Thanh... Hối hả đi, hối hả viết, ngòi bút của ông đưa lên báo kịp thời những tấm gương, những câu chuyện chiến đấu, những kinh nghiệm thiết thực của bộ đội ta. Không chỉ vậy, điều gì cần thiết là các phóng viên đều cố gắng làm. Phóng viên Nguyễn Khắc Tiếp với những bút danh khác nhau hoặc không đề bút danh, dưới phần lớn các bài báo còn giới thiệu cả cách làm giá đỗ, làm dưa, cách nhận biết và chế biến nhiều loại rau rừng... Thú vị thay, từ ông mà chúng ta biết đến nhiều nét sinh hoạt cụ thể của bộ đội như đặt tên tỉnh, thành phố như Phú Thọ, Thái Bình, Nghệ An... ở các ngách chiến hào. Và cả tên Hàng Đào, Hàng Gai... gợi nhớ và tự hào về 36 phố phường Hà Nội.

Việc làm báo ở mặt trận Điện Biên Phủ không chỉ là viết. Ông còn trực tiếp tham gia đọc loa phát thanh bằng tiếng Pháp làm công tác địch vận, vừa là lấy tư liệu viết bài, vừa là phiên dịch giúp bộ đội ta khai thác tù binh, trong đó có cả những quan hai, quan ba và cả tướng Pháp De Castries sau ngày chiến thắng...

Nói đến tên nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp, các lớp cán bộ ở Báo QĐND và Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam đều nhắc đến một vinh dự lớn nhất trong cuộc đời làm báo của ông. Đó là bài báo viết về cuộc nói chuyện của Bác Hồ với cán bộ Đại đoàn 308 tại sân Điền Giếng dưới chân Khu di tích lịch sử Đền Hùng vào ngày 19-9-1954, trước khi Đại đoàn thực hiện nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô Hà Nội (10-10-1954). Trong bài báo, ông ghi lời Bác: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Từ trang Báo QĐND, câu nói thiêng liêng ấy truyền đi trong lòng quân dân cả nước và trở thành một trong những tuyên ngôn bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khi lớp chúng tôi về Báo QĐND thì nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp đã đảm nhiệm nhiệm vụ phụ trách Phòng biên tập Thời sự (nay là Phòng biên tập Thời sự quốc tế) với phần việc đặc trách về các nội dung quốc tế và đối ngoại. Là người cao tuổi nhất tòa soạn, là người từng lăn lộn ở các mặt trận, viết nhiều thể loại bài và thông thạo ngoại ngữ, song ông lại là người khiêm nhường, nhã nhặn. Không lớn tiếng với ai, không mấy khi kể việc, kể chuyện về mình, mà ngược lại, luôn sẵn sàng nghe, sẵn sàng trao đổi với mọi người, ngay cả với những phóng viên trẻ về kiến thức chung và chuyên môn nghề nghiệp. Nhiều lần ông sẵn sàng “cúi đầu làm ngực chú nhi đồng” nhận lời phiên dịch tiếng Pháp cho các phóng viên trẻ lớp sau.

Công việc biên tập phần quốc tế không cho phép ông đến với các mặt trận và đến với bộ đội như trước, song lúc nào cần là ông vào việc đầy trách nhiệm và thành công. Việc khó như tiếp xúc, hỏi chuyện các vị khách nước ngoài, trong đó có các nguyên thủ quốc gia, ông đều thực hiện đúng yêu cầu. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước (30-4-1975), khi cần khai thác, viết về các tướng của ngụy quân Sài Gòn, ông cùng ông Lê Kim hoàn thành loạt bài có chiều sâu và hấp dẫn...

Hôm nay, đoạn hè đầu phố Lý Nam Đế và đầu phố Phan Đình Phùng như vẫn in bóng ông, dáng bước nhanh nhẹn một thời, dáng đi chầm chậm thuở tuổi cao, và nụ cười hiền hậu, trìu mến của ông...

MẠNH HÙNG

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.