Cách đây đã trên nửa thế kỷ, Lê Lựu khởi sự nghiệp văn bút ở Báo Quân khu 3 từ năm 1959 với nhiều phóng sự nóng hổi về bộ đội. Lê Lựu khi đó còn nổi tiếng hơn Tổng biên tập Mai Vui và đã bắt đầu có những truyện ngắn đầu tiên in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội như “Tết làng Mụa” và nổi tiếng với “Người về đồng cói”.

Lê Lựu là tay cự phách với nhiều thể loại báo chí: Phóng sự, ký sự, bút ký... rất sống động và có một giọng văn riêng. Những ngày ông viết “Người cầm súng” (tập truyện ngắn, năm 1970), “Phía mặt trời” (tập truyện ngắn, năm 1972), “Mở rừng” (tiểu thuyết, năm 1976)... là những ngày đi thực tế tại các trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Ông đã viết nhiều bài báo và được Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn Đồng Sỹ Nguyên hết sức khen ngợi. Đã nhiều lần, vị Tư lệnh “cấm” ông và nhà thơ Phạm Tiến Duật xuống các trọng điểm đang bị bắn phá. Nhưng với bản tính nhà báo xông xáo, Lê Lựu vẫn nhiều lần trốn xuống với bộ đội, thanh niên xung phong. Nhiều bài viết nóng hổi, khét mùi đạn bom đã tới tay bạn đọc. Cũng bởi vậy, tiểu thuyết “Mở rừng” mới ăm ắp tư liệu chiến trường, trở thành một đặc sản văn chương viết về người chiến sĩ Trường Sơn cùng với các tác phẩm “Mảnh trăng cuối rừng”, “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu và những bài thơ của Phạm Tiến Duật.

 Nhà văn Lê Lựu. Ảnh tư liệu 

Tiếp đó, nhà văn Lê Lựu đến và công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội cho tới lúc về hưu. Tôi có nhiều kỷ niệm với nhà văn Lê Lựu.

Tôi được gặp nhà văn cách đây 27 năm. Mùa hè năm 1995, tôi đi dự trại viết của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Lê Lựu khi đó là trại trưởng, đọc tác phẩm văn xuôi cho anh chị em. Lúc ấy, do chị Như Bình và chị Thanh Hà (hiện là hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam) rất xinh đẹp, coi như đã chiếm thời gian và tình cảm của Lê Lựu nên tôi dựa vào thế mạnh đồng hương, thế mạnh binh nhì mà “tiến công”. Ông đọc sáng tác của tôi rất kỹ và phán ngay: “Cơ bản là hỏng. Hỏng nhưng còn cứu được chứ không hỏng hẳn. Cậu viết thì có văn mà đọc thì không có chuyện”. Rồi ông an ủi: “Binh nhì cơ à? Lại đồng hương với tớ thì lo gì! Thôi, ra biển mà chơi. Tớ còn làm việc”. Tôi nhìn các bản thảo chữ tím của các chị kia mà ấm ức. Cơ mà không nản lòng. Cái sự văn chương là một sự dài, phải cày sâu cuốc bẫm, phải lăn lóc, phải biết “giết” đi chính mình mới mong có một cái gì. Ấy là sau này khi tôi đã có một số truyện in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Báo Văn nghệ... ông mới bảo tôi thế.

Mấy tháng trước, khi chị Lương (con gái nhà văn Lê Lựu) đón ông trở về căn nhà tuổi thơ, nơi bối cảnh ông viết “Thời xa vắng”, ai cũng thấy mừng thầm. Người đi thấm thoắt mây bay mấy chục năm rồi cũng đến lúc trở về làng cũ. Cái tên Lê Lựu lừng danh khắp trời Việt, trời Âu, Phi và đặc biệt là nước Mỹ. Lê Lựu có nhiều người bạn Mỹ và không ít người nhìn bộ tóc xoăn tít của Lê Lựu cứ nghĩ ông là người lai Mỹ, nhưng tính cách ông lại đặc sệt chất nông dân Việt Nam bờ bãi sông Hồng. Lê Lựu dẫu có giày tất com lê cà vạt trông vẫn cứ tất tả, tơi bời như ông nông dân vừa đánh xong mười mấy luống cày vụ chiêm nóng nực. Lê Lựu uống nước cứ chộp choạp vất vả thế nào. Cái cách Lê Lựu vuốt tóc cũng khiến người khác phát mệt bởi tóc ông vốn xoăn tít, lại lúc viết lách văn chương bí bách hay sao mà ông cứ vuốt mái đầu... Rồi thì cái đầu ấy trọc lốc, chỉ còn lơ thơ vài sợi. Tóc về với đất trước người cũng như lẽ đời, lẽ trời biển nông sâu.

Tôi ngồi mãi bên ông, nhà văn Lê Lựu nằm thiêm thiếp, đôi mắt nhắm nghiền, hơi thở khe khẽ như đã từ lâu bỏ mặc xung quanh. Trong buổi trưa ngồi cùng chị Lương, tôi nói rằng Lê Lựu là một người hạnh phúc.

Xưa nay, nhiều người cho rằng ông quá lam lũ, cơ cực, đắng cay, khúc khuỷu trên suốt chặng đường đời có lẽ còn chưa thấu đáo chăng? Lê Lựu từ bé đã được độc lập làm người lính, độc lập làm báo, làm văn, độc lập mở mang sự nghiệp, lại còn được bao nhiêu người xúm vào nghe ông nói, các thế hệ đua nhau đọc tác phẩm của ông, các lãnh đạo lắng nghe và tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho ông... Tóm lại là muốn sao được vậy thì cơ cực nỗi gì? Lê Lựu đích thực là một người hạnh phúc! Còn phải nghi ngờ gì nữa!

Khi nghe tin nhà văn Lê Lựu mất, tôi thấy thật là thanh thản, tuy nhiều nỗi bâng khuâng. Ông đã thực sự có một cuộc trường chinh mới, mênh mông, dài rộng. Người đã về đồng cói, cũng là người đã về phía mặt trời cao xanh thăm thẳm mây bay...      

Nhà văn PHÙNG VĂN KHAI