QĐND - Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
Chân nhang lấm láp tro tàn
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào
Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí, tay bầu
Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa
Cái cò... sung chát, đào chua...
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết những lời mẹ ru
Bao giờ cho tới mùa thu
Trái hồng, trái bưởi đánh đu giữa rằm
Cho giờ cho tới tháng năm
Mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao
Ngân Hà chảy ngược lên cao
Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...
Bờ ao đom đóm chập chờn
Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi
Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn
Bà ru mẹ... mẹ ru con
Liệu mai sau các con còn nhớ chăng
Nhìn về quê mẹ xa xăm
Lòng ta... chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương.
NGUYỄN DUY
Lời bình của ĐỖ TRỌNG KHƠI:
Nguyễn Duy là cây bút thơ lục bát đẳng cấp cao. Giọng lục bát của Nguyễn Duy cũng khá phong phú. Khi thì sâu lắng, thôn trang, mực thước, cổ điển. Lúc lại ba la, bông lông, bụi bụi, phố phường, trẻ trung, hiện đại. Mối quan tâm của thơ Nguyễn Duy cũng rộng. Hầu như cảnh đời, phận người nào trong đời này đều đã bước vào cõi thơ ông. Từ người mẹ, người bà, người vợ, người em gái gần gụi hay thoáng qua chợt gặp, người nông dân, công nhân, người lính, người xa xứ; cảnh sắc thiên nhiên, mùa vụ, như cây lúa, cây tre, bông mai vàng, bông lục bình, v.v.. Dường như, Nguyễn Duy đã tạo ra cho thơ ông cả một đời sống, một thế giới. Trong cái thế giới thơ-và, thơ lục bát Nguyễn Duy đó, thì thơ viết về người phụ nữ-bà, mẹ, vợ, người em gái-là một mảng thơ khá đặc sắc. Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa là một trong những bài hay nhất, gây xúc động nhất.
Buồn nhớ mẹ, mất mẹ là một nỗi buồn rất lớn, rất sâu. Sâu suốt kiếp người nên nói không cùng, đi không hết. Sinh làm người, ai chả có mẹ, chả bắt đầu từ mẹ, từ hít hà, bú mớm, cưng nựng, lon ton, rồi lớn khôn, mơ mộng và rồi làm thơ. Thơ về mẹ, về những đoạn trường thành thân con người ấy.
Người mẹ nào sinh con, nuôi con chả chịu bao vất vả, người mẹ xứ quê-quê Việt những năm 50, 60, 70 của thế kỷ trước, càng thêm bội phần vất vả. Bản chất của thơ vốn là một tiếng ca buồn. Mẹ cũng buồn. Bởi vậy, thơ lại là thơ về mẹ, sao cầm hết buồn? Nhưng, không hề chi, lo chi. Thơ là một cái buồn đẹp. Buồn của một loài trăng, đêm càng đen, càng sâu, càng dứt lòng mình mà sáng. Mẹ là nỗi buồn nhân bản, buồn nhân thế. Thế thái, nhân tình có buồn cỡ mấy mẹ cũng cưu mang, ru nín được hết. Bởi vậy, mang nỗi buồn mẹ vào thơ là mang điều kỳ vĩ vào cho cái đẹp. Thực là một công việc đáng làm biết mấy. Đứa con-nhà thơ kia đáng làm con của mẹ. Có đứa con nào dám so bì với hắn nữa. Chưa tin thì cứ hỏi mẹ Việt ngàn thuở qua thì rõ. Vậy mới bảo, lo chi, hề chi.
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết những lời mẹ ru...
Ý thơ tụng ca này, đặt vào ai cũng thành ra lố, thành ra nịnh hót rởm. Nhưng đặt trước tình mẹ thấy “nịnh” thế vẫn còn nhẹ, nhẹ hều. “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn...” cơ mà. Cội nguồn-gốc, lớn lao lắm. Nhưng ông Nguyễn Duy còn có thêm lời đáng giá để dâng mẹ.
Nhìn về quê mẹ xa xăm
Lòng ta... chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương...
Mẹ buồn và mẹ bao la, kỳ vĩ. Bởi vậy, viết về mẹ, con có thể có lời buồn nhưng là phận con đỏ, con thơ trước mẹ, con làm sao có tầm bao la, kỳ vĩ. Mẹ cũng quê mùa, giản dị, như "áo nhuộm nâu", "hơi ấm ổ rơm"... Nhờ vậy, con còn có cửa để mà về thưa thốt. Lời thơ giản dị, chân thành, thấm buồn và sâu lắng lẽ đời. Được mấy câu này, thế cũng đáng lắm. Hẳn mẹ vui lòng.
Đứa con nào chưa tin điều bày tỏ này, xin hãy về hỏi mẹ. Lòng ta chỗ ướt... ấy nơi mẹ đang chờ ta.