Mới đặt chân đến đầu làng Đào Thục, âm thanh lách cách của những nhát đục, tiếng gỗ chạm vào nhau vang lên từ những nếp nhà nhỏ như một lời chào mời khách phương xa. Ở góc sân đầy mùi gỗ mới, nghệ nhân Nguyễn Văn Phi - người có mấy chục năm gắn bó với nghề chế tác rối nước truyền thống đang tỉ mẩn hoàn thiện khuôn mặt cho một con rối mới. Với ông Phi rối nước không chỉ là “những con gỗ biết múa dưới ánh đèn thủy đình”, mà là một phần hồn cốt văn hóa của làng, của người Việt, của 300 năm nghệ thuật dân gian.
Nghề rối nước Đào Thục có từ thế kỷ XVII, do ông tổ nghề Đào Đăng Khiêm truyền dạy. Trải qua nhiều thăng trầm, có thời điểm phường rối tưởng như biến mất. Thế rồi những năm 70 - 80 của thế kỷ XX, người trong làng lại cùng nhau phục dựng để giữ lấy một phần di sản của quê hương.
 |
Nghệ nhân làng Đào Thục chế tác rối nước.
|
Trong gian xưởng gỗ của mình, ông Phi kể về công đoạn khó nhất: “Chế tác rối thì nhiều công đoạn lắm, nhưng khó nhất là tạo được cái hồn cho nhân vật. Con rối phải mang được nét dân gian xưa, nhưng vẫn phải hoạt động nhịp nhàng để nghệ nhân biểu diễn cho linh hoạt, cho mềm mại”.
Nghệ nhân phải vừa là thợ mộc, vừa là họa sĩ. Một con rối hoàn chỉnh phải trải qua hàng chục bước: Chọn gỗ mịn, khoét ruột để giảm trọng lượng, đục tạo hình, hong khô, sơn phủ nhiều lớp, rồi gắn dây, lắp máy điều khiển sau lưng.
Kỹ thuật tạo ra một con rối không chỉ chú trọng ở khâu tạo hình, mà đặc biệt còn nằm ở chất liệu gỗ được sử dụng để làm ra các nhân vật trong tích trò của rối nước. Phân tích về các loại vật liệu được đưa vào làm rối thủ công tại Đào Thục, ông Phi cho biết: Tỷ lệ hút nước của gỗ sung thấp giúp cho con rối nhẹ hơn, dễ điều khiển nên từ xưa các nghệ nhân đã dùng gỗ sung để làm. Không chỉ đạt yêu cầu về chất lượng, gỗ sung còn tượng trưng cho sung túc, niềm tin vào cuộc sống no đủ, ấm êm khi làm nghề.
Chế tác rối gỗ, với nghệ nhân Đào Thục không chỉ dừng lại ở việc đục đẽo để tạo ra hình hài một nhân vật. Điều quan trọng hơn là phải thổi được hồn nghệ thuật vào từng nét mặt, dáng đứng, cử chỉ của con rối. Muốn làm được điều ấy, người thợ không chỉ giỏi nghề mà còn phải hiểu thật sâu cái gốc của văn hóa dân gian, hiểu câu chuyện, tinh thần của từng tích trò. Mỗi nét chạm khắc, mỗi lớp sơn phải thể hiện được sự mộc mạc, hồn hậu và thông minh của người xưa. Bởi chỉ khi con rối mang được cái thần của nghệ thuật dân gian, nó mới thực sự “sống” trên mặt nước, mới truyền được cảm xúc cho khán giả và giữ trọn vẹn giá trị của một di sản đã trải qua nhiều thế hệ.
Nghề chế tác rối của làng Đào Thục đã tiếp nối dòng chảy văn hóa hơn ba trăm năm. Trong mỗi xưởng gỗ, tiếng đục, tiếng đẽo vẫn vang lên đều đặn như nhịp thở của làng nghề. Từ đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân, những khối gỗ sung vô tri được đánh thức, trở thành nhân vật biết cười, biết múa, biết kể chuyện. Và chính sự bền bỉ ấy đã giữ cho Đào Thục vị thế một trong những cái nôi quan trọng của nghệ thuật rối nước dân gian. Để hôm nay, mỗi khi trống thủy đình vang lên, người ta lại thấy ở Đào Thục, nghề vẫn còn, hồn nghề vẫn sống và tình yêu dành cho rối nước vẫn cháy âm ỉ trong từng mái nhà, tâm hồn người trong ngôi làng cổ.