1. Người Trung Quốc phân biệt 2 loại tri thức (hay kiến thức, tri kiến): Văn tuệ và Tri tuệ.

Văn tuệ do sự nghe (văn) mà biết, Tri tuệ do sự suy nghiệm (tri) mà được. Cả hai đều cần thiết cho phát triển xã hội.

Văn tuệ là kiến thức thu thập được từ thầy, trường lớp, đọc sách hay nghe giảng. Nghĩa là tất cả những gì từ mắt thấy, tai nghe. Nhưng cao hơn một bậc là Tri tuệ. Từ vốn kiến thức Văn tuệ, ta suy nghiệm bằng kinh nghiệm và trí thông minh của mình, phát triển thêm, thành sáng tạo.

Sáng tạo là giá trị cao tuyệt. Chính ở điểm này, hàng đạt đạo hay triết gia lớn của nhân loại dù “ít học” nhưng đã đạt đến tri thức tinh duệ, tư tưởng dẫn đạo lịch sử nhân loại. Thấp hơn một cấp là các nhà sáng tạo (đủ lãnh vực: văn học, nghệ thuật, khoa học,…) sáng tác các tác phẩm, công trình để đời. Còn người Văn tuệ là kẻ thu gom kiến thức từ hai bậc trên, thực hành hay truyền đạt thực hành.

Cả 3 hạng người đều có ích cho xã hội, cộng đồng.

Dĩ nhiên điều cần thiết là mỗi người biết mình (tự tri) đứng tại bậc nào để mà liệu cơm gắp mắm.

2. Phật giáo có từ Thiện tri thức (trong kinh Hoa Nghiêm), ý nghĩa gần như nguyên nghĩa từ Triết gia của Tây phương. Thiện tri thức là người yêu tri thức và đi tìm tri thức. Yếu tố tạo thành một Thiện tri thức đúng nghĩa là:

- Người đó có vốn tri thức căn bản.

- Dám chiến đấu chống lại những ý tưởng sẵn có (không nô lệ nghe theo thầy, sách vở, truyền thống…).

- Con người của những ý tưởng độc lập. Chính các đầu óc “nghe tin theo” mới gây bạo loạn chứ trí tuệ độc lập thì không.

- Yêu thích sự sáng tạo.

- Yêu thích phê bình và chấp nhận sự phê bình. (Có nhiều kẻ phê bình người khác thì được nhưng khi bị phê bình thì lại giãy nãy lên như đỉa phải vôi).

- Giữ khoảng cách cần thiết với hệ tư duy truyền thống hay kẻ đồng thời. Khổng Tử: “Quân tử hòa nhi bất đồng”. Người quân tử là kẻ sống hòa với tất cả mọi người, nhưng tư tưởng thì không đồng nhất với kẻ xung quanh.

Nghĩa là độc lập hoàn toàn.

Câu nói nổi tiếng của Aristote: Tôi yêu Platon, nhưng tôi yêu chân lí hơn.

Inrasara