QĐND - 1. Giá trị của di sản là giá trị xã hội: Có những giá trị có tầm ảnh hưởng ở phạm vi quốc gia/dân tộc (ví dụ, tín ngưỡng thờ cúng Quốc tổ Hùng Vương), có những giá trị có ảnh hưởng ở phạm vi vùng (như tín ngưỡng Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trung Trực, đạo Mẫu,…), có những giá trị chỉ có ảnh hưởng ở phạm vi cộng đồng làng/xã (như các vị Thánh, Thành hoàng của làng).
Vì thế, để bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa, việc đầu tiên mà Nhà nước cần phải làm là: Phân loại các di sản để có những chính sách ưu tiên đối với những giá trị ở tầm cỡ quốc gia, dân tộc, bởi không một nhà nước nào có đủ kinh phí để “bao cấp” cho việc bảo tồn tất cả những di sản văn hóa của đất nước. Đã có thời kỳ, chúng ta phân phối kinh phí bảo tồn di sản văn hóa theo kiểu “bốc thuốc bắc”, tức là chia đều kinh phí bảo tồn cho mỗi địa phương, không phân biệt đâu là dự án trọng điểm hay hoàn cảnh đặc thù của mỗi di tích, di sản văn hóa, không phát huy được những di sản tiêu biểu, có tầm ảnh hưởng quốc gia, mặt khác điều đó cũng dẫn đến tâm lý trông chờ vào kinh phí của Nhà nước trong việc bảo tồn di sản, không phát huy được tính tích cực trong các cộng đồng cư dân.
Rất tiếc, cho đến nay ta chưa làm tốt được điều này. Tôi cho rằng: Đây là công việc không chỉ của riêng các nhà quản lý mà còn cần sự phối hợp chặt chẽ, nghiêm túc của các nhà khoa học. Ở đây, tiêu chí đầu tiên cần được thảo luận và nghiên cứu sâu là: Thế nào là một di sản có giá trị ở phạm vi quốc gia/dân tộc?
2. Nền kinh tế thị trường tác động mạnh đến chính sách văn hóa của Nhà nước, một chính sách có xu hướng nói không với “bao cấp" kể cả bao cấp văn hóa. Vì thế, một xu hướng khác trong chính sách văn hóa đã bắt đầu xuất hiện và sẽ dần thay thế xu hướng “bao cấp” này, đó là phát huy “vốn văn hóa”, biến chúng thành “vốn kinh tế” (Capital). Xu hướng này đã rất phổ biến và có hiệu quả ở các nước phát triển, ở ta cũng đã được nhận thức và thể hiện trong những quan điểm của Đảng và Nhà nước (như “xã hội hóa” hay “công nghiệp văn hóa”,…).
 |
Chàng trai Mông múa khèn trong chợ tình Khau Vai (Hà Giang). Ảnh: Văn Giang. |
Thực tiễn cũng đã cho thấy: Nhiều cộng đồng có di sản đã tự tìm cho mình phương thức riêng để bảo tồn di sản của mình trong bối cảnh hiện nay, ví dụ như các hệ thống đền phủ của tín ngưỡng hầu đồng, lễ hội Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, Bà chúa Sứ ở An Giang hay cách làm lễ hội truyền thống như những sự kiện ở Hà Nam (lễ hội Tịch Điền) và ở Hải Dương (lễ hội Kiếp Bạc)… Ở những nơi này, di sản luôn gắn chặt với phát triển du lịch, luôn được khai thác như là những sản phẩm du lịch.
Đáng tiếc là hệ thống lý luận văn hóa của ta chưa theo kịp với thực tiễn này: Đa phần các nhà khoa học vẫn giữ quan điểm “bảo tồn nguyên gốc”, phê phán những cách tân trong mô hình “bảo tồn - phát triển” đối với các di sản văn hóa. (Do chưa thực sự nghiên cứu kỹ khái niệm then chốt của bảo tồn là “Athenticity” (tính xác thực) và chưa có những định hướng lý luận dự báo cho sự phát triển của di sản văn hóa trong nền kinh tế thị trường). Chính điều đó làm các nhà quản lý lúng túng: Họ không biết phải ứng xử ra sao với những di sản đã tự thích nghi hoặc biến đổi để tồn tại. Lẽ ra, họ phải linh động hơn trong việc khuyến khích các kiểu dạng bảo tồn khác nhau (miễn đó là sự lựa chọn của cộng đồng và có hiệu quả), thay vì e ngại, thậm chí phê phán những biến đổi văn hóa trong di sản.
Kinh nghiệm bảo tồn và phát huy vốn văn hóa ở các nước phát triển cho thấy: Các nhà quản lý không cứng nhắc với một mô hình bảo tồn nào mà tùy vào tình hình, đặc điểm thực tế của di tích, di sản đó để lựa chọn mô hình bảo tồn tối ưu nhất: Có những di sản do đã quá đông khách du lịch, nguy cơ bị xâm hại cao (sứt mẻ, ô nhiễm môi trường), nên người ta đã hạn chế bớt số lượng khách đến thăm bằng giá vé cao, để “bảo tồn y nguyên” cho di sản; Ngược lại, rất nhiều lễ hội truyền thống đã phải cải tiến, làm mới bằng những chất liệu và nghệ thuật đương đại để thu hút giới trẻ…
3. Trong xã hội hiện đại, sự giao lưu văn hóa trên phạm vi toàn cầu (trực tiếp như du lịch, các festival nghệ thuật, các ngày hội văn hóa… hay gián tiếp qua các phương tiện truyền thông) tạo điều kiện để các di sản phát huy giá trị của mình. Các nghệ nhân, các nhà quản lý của những di sản ở các cộng đồng - thông qua giao lưu văn hóa với khách quốc tế - dần biết làm thế nào để di sản của mình thích nghi với nhu cầu, thị hiếu của khách du lịch: Những trích đoạn tuồng, chèo (có phụ đề tiếng Anh hoặc có diễn giải trước khi diễn), những giá đồng, những đêm ca trù luôn đầy ắp khách quốc tế ở những điểm đến du lịch hay những lễ hội với những diễn xướng hấp dẫn giới trẻ, những festival bên lề của lễ hội vv.. rất thu hút khách du lịch là minh chứng cho sự thích nghi đó.
Khách du lịch cũng như công chúng quốc tế nói chung rất muốn trải nghiệm văn hóa nghệ thuật của các dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam, tuy nhiên, để có thể hiểu được một văn hóa của người khác thì văn hóa - nghệ thuật ấy phải vừa có bản sắc nhưng lại phải vừa có “ngôn ngữ chung”, có như thế thì quá trình giao tiếp, cảm thụ mới diễn ra được.
“Ngôn ngữ chung” ấy chính là ngôn ngữ của nghệ thuật đương đại. Nhiều nghệ sĩ Việt Nam đã phát huy di sản bằng cách khai thác chất liệu và cảm hứng từ những di sản văn hóa của dân tộc để sáng tạo nên những tác phẩm mới. Đây là cách làm khá phổ biến mà họ học hỏi được từ những trào lưu và kinh nghiệm nghệ thuật quốc tế: Đó là world music, là sân khấu hỗn hợp, là Peformence Art, là múa đương đại v.v.. Những thành công vang dội của đoàn múa đương đại của Ea Sola Thủy, của gánh xiếc “Làng tôi”, nhóm múa khiếm thính do Lê Vũ Long biên đạo, hay vũ đoàn Arabesque và nhóm nhạc tứ tấu của Trí Minh… trên các nhà hát, các festival quốc tế là lời khẳng định đồng thời cũng là một cách tiếp thị hiệu quả nhất về bản sắc văn hóa Việt Nam.
Rất tiếc, những quan điểm và thực hành văn hóa đối ngoại của ta chưa làm được theo nguyên lý này. Các nhà quản lý chưa hiểu rõ vai trò của nghệ thuật đương đại, do đó chỉ cử các đoàn nghệ thuật truyền thống của ta đi biểu diễn ở quốc tế và đã không gây được hiệu quả như mong muốn, bởi họ không có cùng chung “ngôn ngữ” với công chúng quốc tế. Hy vọng trong tương lai, Bộ VH-TT&DL sẽ có những đầu tư và tạo điều kiện cho những nghệ sĩ đương đại tài năng để họ có thể làm ra những tác phẩm đương đại mang bản sắc văn hóa Việt Nam giới thiệu với bạn bè quốc tế. Cách làm này có thể ít chi phí hơn việc đưa các đoàn nghệ thuật truyền thống/dân tộc ra biểu diễn ở nước ngoài mà hiệu quả quảng bá lại tốt nhất. (Tôi đã dự nhiều festival nghệ thuật quốc tế và có trao đổi với một số bạn bè là những giám đốc nghệ thuật của những festival này. Họ nói rằng: Nếu Việt Nam có những tác phẩm nghệ thuật đương đại với chất lượng tốt, họ có thể mời đến diễn và trả thù lao cho nghệ sĩ).
PGS, TS BÙI QUANG THẮNG (Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam)