Vài ba lần lỡ hẹn về thăm quê anh Nguyễn Sỹ Lương, tôi cứ áy náy mãi. Phần vì anh vốn là thủ trưởng cũ từ ngày tôi là học viên sĩ quan chính trị hồi đầu những năm 90 của thế kỷ trước, hơn nữa, anh Lương còn là người trực tiếp kèm cặp, dìu dắt tôi đến với lớp cảm tình Đảng và cũng chính anh là người viết quyết nghị chuẩn y nghị quyết của chi bộ kết nạp Đảng đối với tôi (tháng 12-1994). Nét chữ của anh chuẩn mực và có phần nghiêm trang, đạo mạo như tính cách con người anh vậy. Có lẽ chính khí chất điềm đạm, cách nói năng nho nhã của anh tự nhiên toát ra thần thái khiến học viên chúng tôi yêu mến, nể phục.

 Các liền chị say sưa hát những bài quan họ cổ tại khuôn viên chùa Bút Tháp. Ảnh: PHÚC NỘI

Khi cuộc đời chớm sang nắng bên kia dốc, dẫu bể dâu bào mòn trong trí nhớ nhiều mối quan hệ xã hội, nhưng với anh Lương, tôi luôn giữ trong ký ức một tình cảm trân quý. Thời gian như gió thoảng. Cậu học viên non nớt ngày nào giờ cũng đã ngoại ngũ tuần tay bắt mặt mừng khi gặp lại người xưa vừa chớm tuổi 60 ngay tại nơi chôn nhau cắt rốn của anh-xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành (cũ), nay là phường Trí Quả, tỉnh Bắc Ninh.

Bên bờ sông Đuống “Xanh xanh bãi mía bờ dâu/ Ngô khoai biêng biếc” (thơ Hoàng Cầm), từ lâu, nhắc đến Đình Tổ là người ta nhớ ngay đến chùa Bút Tháp, một ngôi chùa cổ còn lưu giữ hồn cốt Việt bậc nhất xứ Bắc, nơi có tượng Phật bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt như thấu hiểu cả nỗi lòng nhân gian và nhìn rộng dài ra cả bốn phương tám hướng. Về với Đình Tổ là về với cái nôi di sản đặc biệt của quốc gia với tuổi đời khoảng 700 năm, nơi người dân và du khách thập phương có thể cùng lúc thưởng ngoạn, chiêm bái 4 bảo vật quốc gia đang được lưu giữ tại đây có niên đại từ thế kỷ 17, đó là tượng Phật bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt, tượng Tam Thế, tòa cửu phẩm Liên Hoa và hương án.

Không phải lần đầu đặt chân đến chùa Bút Tháp, song cảnh sắc thiên nhiên đậm chất thôn dã và không gian thanh tịnh của ngôi chùa cổ vẫn khiến tôi bồi hồi sau nhiều năm thăm lại thắng tích này. Sau câu nói quen thuộc của cánh nhà lính: “Gặp lại nhau đây là quý lắm rồi”, bên bàn trà ấm nóng ngào ngạt, anh Lương đưa cho tôi mấy dòng thông báo ngắn gọn về chương trình du ca quan họ tổ chức từ 7 giờ 30 phút đến 16 giờ cùng ngày. Nội dung gồm thực hiện nghi lễ dâng hương và nghe giới thiệu tại di tích mộ Thái sư Lê Văn Thịnh và chùa Bút Tháp; các đại biểu tham dự buổi du ca nghe hát quan họ cổ do các liền anh, liền chị quan họ thể hiện; thưởng thức ẩm thực quê hương và nghỉ ngơi; tiếp tục nghe hát quan họ cổ; giao lưu, tạm biệt và chia tay. Thành phần tổ chức là đơn vị chủ nhà Đình Tổ, Câu lạc bộ Ca hát Phú Mỹ (phường Trí Quả) và các liền anh, liền chị thuộc 3 làng quan họ gốc là Diềm, Hoài Thị, Thị Cầu (khoảng 20 người) và bạn bè yêu quan họ đến từ Hải Phòng, Hà Nội, Phú Thọ...

Khá lâu mới nghe lại từ “du ca”, tôi tò mò hỏi anh Lương “du ca quan họ” nghĩa là gì? Anh đáp rằng, là các liền anh mặc áo ngũ thân, đầu đội khăn xếp, tay cầm ô đen; là các liền chị trong bộ áo mớ ba mớ bảy xúng xính, đầu chít khăn mỏ quạ, tay cầm nón quai thao cùng nhau đi đây đó để cùng trao duyên tình tứ, cùng ngân lên những lời ca quan họ “vang, rền, nền, nảy” mà tâm trạng lúc nào cũng chông chênh, lưu luyến, dùng dằng nửa ở nửa về...

“Đấy, bạn thấy không-anh Lương bỗng đổi ngôi xưng hô với tấm chân tình đặc trưng của người Kinh Bắc-quan họ thời nay là thế, là muốn tồn tại, muốn sống trong dân gian thì người quan họ không chỉ ngồi yên trong nhà, ngồi trên sân đình hay dưới gốc đa, bến nước để trao duyên, đối đáp như xưa, mà phải tăng cường giao lưu, kết nghĩa, kết duyên với những người yêu quan họ ở khắp nơi để thực hành lề lối quan họ truyền thống, để trao truyền, lan tỏa những nét đẹp đặc trưng vốn có của quan họ đến với bè bạn, du khách gần xa”.

Thời thanh xuân, tôi từng thức thâu đêm để trải nghiệm những canh hát quan họ ở thị trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (cũ). Tôi đã nhiều lần xem biểu diễn dân ca quan họ trên sân khấu truyền thống lấp lánh sắc màu rực rỡ, hay các cặp liền anh, liền chị hát quan họ trên mạn thuyền mênh mang sóng nước. Mỗi không gian thực hành quan họ đều có nét riêng, nét hay, sức hút và lưu lại ấn tượng khó phai, nhất là ánh mắt, lời ca, giọng điệu trao duyên ngọt ngào của các anh hai, chị hai quan họ...

Một sáng đông hàn, từng tia nắng vàng óng xuyên qua những hàng cau xanh mướt trải dài xuống những thảm chiếu hoa trên sân trong khuôn viên chùa Bút Tháp như một bức tranh tuyệt mỹ. “Hôm nay tứ hải giao tình/ Tuy rằng bốn bể nhưng sinh một nhà/ Hôm nay gặp mặt giao hòa/ Nguyện xin nguyệt lão, giăng già xe duyên”... Chất giọng trầm ấm của ông Ngô Thanh Giang, nguyên Phó chủ tịch HĐND huyện Thuận Thành khai mào cuộc hội ngộ giữa người quan họ và du khách như một chất xúc tác ngọt ngào mở ra không gian giao duyên thật tự nhiên, thân tình.

Tiếng chuông khánh leng keng hòa với tiếng gió xào xạc như bản hòa tấu thiên nhiên khiến những lời ca “Mời nước mời trầu” của người quan họ như gắn kết mọi người lại gần gụi, chan hòa, đằm thắm hơn: “Mấy khi khách đến chơi nhà/ Đốt than quạt pha trà em mời người xơi/ Trà này quý vậy người ơi/ Mỗi người mỗi chén cho em vui lòng”... Cứ thế, khẩu hình của các liền anh, liền chị như mạch nguồn tươi mát để lời ca hòa với giọng điệu “i í, ơ ớ, ư hự, í a, í ơ, hội hà...”, mới thoạt nghe cảm giác có phần lê thê, dầm dề một chút, nhưng càng nghe càng da diết, đắm say, lắng đọng và như có sức thôi miên, mê hoặc đến mức ám ảnh, dằng không ra mà dứt cũng không xong.

Ngồi nghe các liền anh, liền chị hát những bài quan họ cổ, nào là: "La rằng", "Đường bạn Kim Loan", "Cây gạo", "Lên núi", "Xuống sông", "Cái hờn", "Gió mát trăng thanh", "Tứ quý", "Giã bạn"... cánh trẻ tuổi teen hay mười tám, đôi mươi có lẽ không “ngấm” vào đầu lắm những ca từ cổ xưa, hoài niệm, nhưng có lẽ họ sẽ thích thú khẩu hình chúm chím tươi tắn, duyên dáng của chị hai quan họ và dáng vẻ thư sinh nho nhã của các anh hai quan họ; còn lứa tuổi trung niên thì thấm thía hồn vía của văn hóa quan họ đã làm nên một phần hồn cốt của xứ Kinh Bắc nói riêng, người Việt nói chung... Trên chiếu hoa, từ dáng ngồi đến lời nói, ánh mắt, cử chỉ đối đáp, trao duyên của mỗi liền anh, liền chị đều toát ra vẻ đẹp rất đỗi tự nhiên, nhã nhặn ấy.

Một ngày du ca quan họ tại chùa Bút Tháp, tôi như lạc vào “mê cung” tình người thân thương, sâu nặng của người quan họ và càng thấm thía tinh hoa văn hóa quan họ thể hiện ở sự ý nhị, tinh tế trong phong cách ứng xử, trong tâm tư, tình cảm gửi gắm vào mỗi lời ca. Từ phút đầu gặp gỡ, người quan họ cởi lòng cởi dạ chan hòa: “Hôm nay sum họp trúc mai/ Tình trong một khắc nghĩa dài trăm năm”, đến khi tiếp khách đối đãi thì thanh tao, nền nã: “Giầu này trong tráp mở ra/ Giấu cha giấu mẹ đem ra mời chàng”... Thêm nữa là một người tâm huyết, say mê quan họ như anh Nguyễn Sỹ Lương vừa thành lập Câu lạc bộ Ca hát Phú Mỹ để chung tay góp sức cùng cộng đồng giữ gìn, lan tỏa cái hay, cái đẹp của văn hóa quan họ, tôi như được tiếp thêm men say với tình yêu quan họ. 

Rời chùa Bút Tháp khi vạt nắng cuối chiều còn sót lại ánh vàng đậu trên những hàng cau xanh mướt, trong tiếng chuông khánh leng keng ngân nga trong gió, tôi cũng như bao người yêu quan họ ra về mà tâm trạng ngẩn ngơ, thơ thẩn vì cái duyên quan họ sao cứ dùng dằng như muốn níu kéo bước chân mình ở lại...

Trái tim ai có “sắt đá” đến mấy thì tâm hồn cũng đâu khỏi “tan chảy” bởi những giai điệu, lời ca lưu luyến, bịn rịn, chứa chất bao nỗi nhung nhớ, thân thương của người quan họ như kéo dài bất tận: “Người ơi người ở đừng về... Người về em vẫn (i i i) nay có mấy trông (i) theo, ơ... trông theo, trông (í a) nước, bây giờ là như nước chảy... Mà này cũng có (í a) trông bèo... trông bèo là bèo trôi... Người ơi người ở đừng về... Người về em vẫn (í í i i)... nay có mấy khóc (í i) thầm... Đôi (í a) bên là bên song đôi vạt áo... Mà này cũng có (a) ướt đầm, ướt đầm (ư) như mưa... Người ơi người ở đừng về...”.

Lời ca díu dan, vấn vương tơ lòng như nhắc nhớ tôi khắc cốt ghi tâm tình cảm son sắt thủy chung của người quan họ và cũng là tự hứa với lòng mình sẽ có một ngày “tương phùng tương ngộ” với các liền anh, liền chị trên quê hương Đình Tổ.