Khi lấp lánh rạng ngời trong vàng son rực rỡ, khi ẩn hiện thấp thoáng thật trang nhã cao siêu, những vần thơ ngự chế, những câu đối, những đại tự chữ Hán… đều là sản phẩm trí tuệ tuyệt vời của các vị hoàng đế triều Nguyễn, được chạm, khắc, khảm, đúc, nung, ghép… bằng nhiều chất liệu khác nhau: Gỗ, đồng, pháp lam, ngà voi, xương, sành sứ… tạo nên một bộ sưu tập thơ văn vô cùng phong phú và có giá trị đặc biệt về mỹ thuật, văn hóa và lịch sử. Đây là điều chưa từng có trong lịch sử các triều đại quân chủ Việt Nam, và có lẽ cũng chưa từng thấy ở nơi nào khác trên thế giới.
Đón bằng công nhận Di sản tư liệu cho Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế. Ảnh: Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế
Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là những tác phẩm tinh tuyển từ vô số các trước tác của các vị hoàng đế tài hoa của triều Nguyễn, bắt đầu được sử dụng để trang trí trên cung điện, đền miếu, lăng tẩm hoàng gia từ thời Minh Mạng (1820-1841) đến thời Khải Định (1916-1925). Công việc này được thực hiện bởi những đôi tay vàng của các thế hệ nghệ nhân giỏi nhất quốc gia. Trải qua bao dâu bể, sự khắc nghiệt của thời gian, thiên tai, sự tàn phá của chiến tranh, đến nay Huế vẫn còn bảo tồn được gần 3.000 đơn vị với đầy đủ các loại hình: Thơ, văn, câu đối, đại tự (và cũng có số lượng chừng ấy ô họa với nhiều nội dung khác nhau). Đây thực sự là một bảo tàng thơ văn cổ phong phú và hết sức độc đáo.
Thơ văn trên kiến trúc cung đình thường được trang trí theo lối “nhất thi nhất họa” hoặc “nhất tự nhất họa”, mỗi bài thơ hay mỗi đại tự được trang trí kèm một bức tranh. Vị trí thể hiện chủ yếu là trên các liên ba, đố bản hay cổ diềm các công trình, cả trong nội thất và ngoại thất, để ở vị trí nào người ta cũng có thể chiêm ngưỡng, thưởng thức được. Thơ thì phổ biến là thể ngũ ngôn, thất ngôn; câu đối thì khá đa dạng, không cố định số chữ; đại tự thì chủ yếu là các mỹ tự với ý nghĩa tốt đẹp. Thư pháp và cách thức thể hiện thì vô cùng phong phú, đủ cả 4 loại hình chân, thảo, triện, lệ; xếp ngang, đặt dọc, thậm chí có hai bài thơ trên điện Long An còn được bố trí theo hình bát quái rất kỳ ảo, để mỗi bài thơ tuy chỉ có 56 chữ nhưng lại có thể đọc thành 64 bài thơ hoàn chỉnh khác nhau!
Tranh đi kèm thơ thì đa dạng, ngoài chủ đề phổ biến là bát bảo (tám vật quý), tứ thời hay tứ quý (4 mùa) thì còn có tranh phong cảnh, cổ đồ… Tùy vào chất liệu (trên gỗ, trên đồng, trên đá, trên bê tông, vôi vữa…), những nghệ nhân xưa đã khéo léo lựa chọn những màu sắc phù hợp cùng cách thể hiện (sơn, thếp, chạm, khảm, tráng men, đắp gắn…) để những áng thơ văn và các bức tranh đi kèm trở nên nổi bật, hoặc lung linh, hoặc mờ ảo, hoặc trang nhã, phù hợp với bối cảnh cụ thể.
Về mặt nội dung, thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế tuy là thơ ngự chế của các vị hoàng đế, nhưng nội dung, chủ đề khá phong phú. Ở khu vực từ Ngọ Môn đến điện Thái Hòa, khu vực trung tâm và quan trọng nhất của hoàng cung, nơi tổ chức các nghi lễ triều hội, thơ văn đều theo mạch chủ đề ca ngợi đất nước văn hiến, hùng cường, ca ngợi non sông gấm vóc, ca ngợi triều Nguyễn với công lao to lớn thống nhất giang sơn, mở rộng bờ cõi, ca ngợi triều đại thịnh trị... Gần 300 bài thơ trên 2 công trình Ngọ Môn và điện Thái Hòa đều nhất quán với chủ đề này. Tiêu biểu nhất là bài thơ khắc ở gian chính giữa điện Thái Hòa: "Nước ngàn năm văn hiến, Thống nhất muôn dặm xa. Từ Hồng Bàng mở cõi, Trời nam một sơn hà (Văn hiến thiên niên quốc, Xa thư vạn lý đồ. Hồng Bàng khai tịch hậu, Nam phục nhất Đường Ngu).
Thơ văn ở các miếu thờ trong Hoàng cung như Triệu Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu thì chủ yếu ca ngợi công lao to lớn của các bậc hoàng đế đầu triều, ghi nhớ công ơn của tổ tiên đã đặt nền móng, gây dựng cơ nghiệp.
Còn thơ ở các lăng tẩm hoàng gia, tiêu biểu là lăng vua Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Dục Đức, lăng Đồng Khánh, lăng Khải Định thì chủ yếu là nỗi niềm tâm sự riêng của các vị hoàng đế về thế thái nhân tình, sự quan tâm đến cuộc sống người dân, quan tâm đến nền nông nghiệp nước nhà, hoặc ca ngợi cảnh đẹp độc đáo vô song của khu lăng- ngôi nhà vĩnh cửu mà họ đã dày công chọn lựa. Ở mặt trước điện Khải Thành, lăng vua Khải Định có câu đối gắn bằng sành sứ rất hay: "Bốn phía đều là kỳ quan, cảnh sắc tựa chốn riêng trong vũ trụ/ Ngàn năm hun đúc vượng khí, núi sông ôm ấp bảo hộ muôn đời" (Tứ diện hiến kỳ quan phong cảnh biệt khai vũ trụ/ Ức niên chung vượng khí giang sơn trường hộ trừ tư).
Đến nay, hệ thống thơ văn chữ Hán trên kiến trúc cung đình Huế vẫn được bảo tồn rất tốt, trừ các tác phẩm đã bị mất mát do công trình bị tiêu hủy, số còn lại được giữ gìn hầu như nguyên vẹn. Đánh giá về kho tàng thơ văn này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đây là một di sản vô cùng đặc biệt, nó không chỉ phản ánh trí tuệ, tài năng của các vị hoàng đế triều Nguyễn, mà còn phản ánh truyền thống văn hóa và đặc trưng của xứ Huế, vùng đất của thi ca và các thi nhân nổi tiếng.
Với những giá trị đặc biệt và nổi bật, thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về tính nguyên bản, tính quốc tế, tính độc đáo và nhiều tiêu chí khác mà UNESCO đặt ra đối với một di sản tư liệu. Hồ sơ về di sản thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế đã hoàn toàn thuyết phục Ban chấp hành và toàn thể các thành viên tham dự hội nghị lần thứ 7 của Ủy ban Di sản ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương (MOWCAP) để đạt được số phiếu tuyệt đối. Chiều ngày 19-5-2016, ngay tại cố đô Huế, di sản này đã chính thức được vinh danh (cùng với một di sản khác của Hà Tĩnh là Mộc bản trường học Phúc Giang).
Có thể khẳng định đây là một sự kiện văn hóa quan trọng với Việt Nam nói chung và cố đô Huế nói riêng, bởi sự công nhận này càng chứng minh, Việt Nam là một quốc gia văn hiến và có rất nhiều di sản vô giá, mang tầm vóc thế giới. Riêng với Huế, từ đây, cố đô đã thực sự trở thành “Một điểm đến 5 di sản” (đó là: Quần thể di tích cố đô- được UNESCO công nhận năm 1993; Nhã nhạc cung đình Huế-2003; Mộc bản triều Nguyễn-2009; Châu bản triều Nguyễn-2014; và Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế- 2016). Đây là một lợi thế vô cùng lớn để Huế khai thác, phát huy các di sản phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, sự công nhận này cũng đồng nghĩa với việc cố đô Huế phải xác định trách nhiệm to lớn để bảo tồn một cách bền vững di sản văn hóa vô cùng quý giá này cho các thế hệ mai sau.
TS PHAN THANH HẢI (Ủy viên Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)