QĐND - Chiến tranh luôn là một đề tài tạo cảm hứng bất tận cho nhiều tiểu thuyết bất hủ. Trước hết, chiến tranh tạo ra cuộc sống bất bình thường; những cảm xúc con người lên tới cao độ, nhất là khi đối diện với cái chết. Để thể hiện sự phức tạp của chất liệu chiến tranh, tiểu thuyết tỏ ra có ưu thế bởi là “thể loại duy nhất còn đang chuyển biến” và “nòng cốt chưa hề rắn lại”-như nhà lý luận tiểu thuyết kiệt xuất người Nga Mi-khai-in Ba-khơ-tin (1895-1975) từng nhận xét.

Về cơ bản, thái độ của các nhà văn nhìn chiến tranh theo hai hướng sau: Thứ nhất, xem cuộc chiến là chính nghĩa hay phi nghĩa. Ví dụ ở Mỹ, các văn nghệ sĩ nói chung xem việc quân đội Mỹ can dự vào Đệ nhị Thế chiến (1939-1945) chống phe Phát-xít là hợp đạo nghĩa. Ngược lại, với cuộc chiến Việt Nam, các văn nghệ sĩ Mỹ cơ bản hoài nghi về tính chính đáng trong việc tham chiến và nuối tiếc cái giá phải trả. Thái độ thứ hai là nhà văn nhìn bất cứ cuộc chiến tranh đều là thảm họa cho con người nói chung. Việc lựa chọn khuynh hướng nhằm khẳng định tư tưởng chỉ thịnh hành hồi đầu thế kỷ XX như tiểu thuyết kinh điển “Phía Tây không có gì lạ” (1929) của nhà văn Đức Ê-ríc Ma-ri-a Rơ-mác (1898-1970). Ý nghĩa và mức độ tàn khốc của cuộc chiến như cách liệt kê trong sách giáo khoa bị hạn chế tối đa trong tiểu thuyết chiến tranh đương đại.

Ngày nay, đa phần các nhà văn có thể lựa chọn bất kỳ một cuộc chiến nào với chức năng làm bối cảnh để đạt đến mục đích chính là khám phá tâm lý, tâm linh con người. Như trong tiểu thuyết “Nhẫn thạch” của nhà văn Pháp gốc Áp-ga-ni-xtan A-típ Ra-hi-mi đoạt giải Goncourt 2008, kể về câu chuyện người phụ nữ Áp-ga-ni-xtan chăm sóc người chồng trúng đạn sống “thực vật” trong một căn phòng chật hẹp. “Nhẫn thạch” có thể xem là một tiểu thuyết chiến tranh tối giản khi không khí cuộc chiến tàn khốc ở Áp-ga-ni-xtan chỉ hiện diện thông qua tiếng súng vang vọng từ ngoài căn phòng. Cuốn tiểu thuyết là lời độc thoại của người vợ, và cô đã nói hết tất cả những ẩn ức dồn nén của người phụ nữ Hồi giáo mà không cần e ngại vi phạm cấm kỵ. Những lời bộc bạch của cô có lẽ cũng là lời của một dân tộc đã quá suy kiệt vì chinh chiến. Qua “Nhẫn thạch”, chúng ta có thể rút ra một kinh nghiệm hay đó là một tiểu thuyết chiến tranh tầm cỡ không nhất thiết phải sử dụng chất liệu là những trận chiến đẫm máu mà cần chú trọng đến thân phận con người trong chiến tranh.

Một vấn đề mà lâu nay người sáng tác văn học ở Việt Nam luôn mắc phải như húc vào tường là giải quyết vấn đề giữa văn học và hiện thực. Nhiều người lo ngại thế hệ nhà văn trẻ trưởng thành sau năm 1975 không biết đến chiến tranh sẽ khó viết hay hơn các tiền bối từng cầm bút lẫn cầm súng. Điều lo ngại nói trên thực ra không đáng... lo ngại! Quy luật văn học cho thấy, nhiều tiểu thuyết gia viết về chiến tranh chỉ thông qua tư liệu cũng có thể đạt được thành công như trường hợp nhà văn Pháp A-lê-xi Gien-ni sinh năm 1963 đã viết tiểu thuyết “Binh thư của người Pháp” (2011) đoạt Giải Goncourt 2011 về cuộc chiến của người Pháp ở Đông Dương và An-giê-ri.

Khoảng giữa thế kỷ XX là thời điểm các yếu tố đối nghịch với chất liệu tàn khốc của chiến tranh như trào phúng, huyền ảo..., tạo ra những kiệt tác như tiểu thuyết “Lò sát sinh số 5” (1969) của nhà văn Mỹ Cớt Vôn-nê-gớt (1922-2007) viết về cuộc du hành xuyên thời gian của anh lính Bi-li Phiêu-rum đang tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Với các nền văn học đi sau như Trung Quốc, Nhật Bản... những yếu tố phi thực khi kết hợp với tư duy, văn hóa và chất liệu bản địa đều tạo ra những tác phẩm độc đáo như trường hợp các tiểu thuyết của nhà văn mới đoạt giải Nobel Văn học 2012 Mạc Ngôn. Ở nước ta, tác phẩm văn học đậm chất phi thực rất hiếm, đặc biệt là trong tiểu thuyết chiến tranh, không hiểu sao các nhà văn nước ta không thử nghiệm theo hướng sáng tạo này? Hiện tại, những tiểu thuyết chiến tranh viết theo kiểu hiện thực “soi gương” gần như không còn được chú ý! Lý do là thời buổi bây giờ là thời đại nghe-nhìn, tiểu thuyết chiến tranh không thể địch nổi.

Đành rằng, để có một tiểu thuyết lớn nói riêng và một tác phẩm văn học nói chung, điều quan trọng là tài năng cá nhân nhà văn. Song, để có một nền tiểu thuyết chiến tranh đa dạng và có chất lượng, thiết nghĩ những ai cầm bút đều phải hiểu biết tối thiểu những đặc trưng của thể loại mới có thể hy vọng có những tiểu thuyết lớn.

Đầu tiên, tiểu thuyết không phải là tác phẩm tự sự cỡ lớn như lâu nay nhiều người ở nước ta quan niệm. Nhiều tiểu thuyết chiến tranh của nước ngoài không chỉ đạt đến tầm cao của tư tưởng mà còn đi rất xa trên con đường hình thức với nghệ thuật cấu trúc truyện kể tinh vi. Giải pháp này thực ra nằm ở chính trong mỗi nhà văn khi anh ta phải luôn tìm cách đổi mới cách kể nhằm hấp dẫn người đọc.

Đặc trưng quan trọng khác của tiểu thuyết là thể loại cho phép nhà văn đổi mới ngôn ngữ triệt để. Ví dụ như, tiểu thuyết “Đàn hương hình” (2001) của Mạc Ngôn nói về cuộc loạn chiến giữa quân triều đình nhà Thanh, quân nông dân khởi nghĩa và cả quân nước ngoài; nhưng sử dụng ngôn ngữ kịch Miêu xoang nên tiểu thuyết trở nên lạ lùng khi cốt truyện hấp dẫn đặc trưng tiểu thuyết nhưng khi đọc lại cảm tưởng như đang ở trong nhà hát xem kịch cổ điển. 

Với chúng ta, chất liệu chiến tranh dồi dào, nhiều phương pháp sáng tác tiên tiến đã và đang được phổ cập ở Việt Nam, đó là những cơ sở để tin nhà văn Việt Nam sẽ sáng tác được nhiều tiểu thuyết chiến tranh hay trong tương lai.

TRẦN HOÀNG HOÀNG