Lớp học của tôi và cậu Bông là một căn nhà mái rạ, tường trát bùn rơm. Hai đứa ngồi cùng bàn. Tiết học đầu buổi sáng, cậu Bông thường ngủ gật, vì đêm qua phải đi bắt lươn để phiên chợ mẹ cậu có hàng đi chợ bán đong gạo.

Buổi chiều hôm ấy, cậu Bông rủ tôi đến nhà chơi, rồi bảo ở lại ăn khoai nước với cậu, sau đó cậu mượn đèn chai, dĩa của hàng xóm cho tôi đi bắt lươn cùng cậu. Tôi cứ e ngại, vì tay mình run không biết có bắt được lươn không? Cậu nhìn tôi bảo, không bắt được con to, thì bắt con nhỏ, cứ đi với cậu vài đêm, là biết bắt ngay.

Mưa xuân ướt vai áo, nhưng cậu Bông và tôi vẫn xăm xăm lội xuống cánh đồng Ngọc Động, gần cống Bà Nữ, lúa vừa bén chân. Trước mặt chúng tôi là bao ngọn đèn chai của người thôn trên, xóm dưới đi bắt lươn đêm, nhấp nháy như một trời sao!

Chẳng mấy chốc, cậu Bông đã được lưng giỏ. Còn tôi mãi mới bắt được một con. Soi đèn vào gốc lúa thấy chú lươn rành rành, vậy mà khi cầm dĩa để bắt thì chú lại lẩn đi đâu mất. Khi chuẩn bị rời cánh đồng Ngọc Động ra về, cậu Bông bắt hộ tôi đến vài chục con, có con to bằng ngón chân cái, thừa nấu nồi củ chuối ngon.

Để lươn khỏi gầy, buổi chiều hôm sau, tôi đào củ chuối tây thái nhỏ để mẹ tôi nấu với thịt lươn. Củ chuối nấu với thịt lươn thì mất vị chát, lại ngọt hơn. Còn thịt lươn nấu với củ chuối thì mất hẳn mùi tanh, mà lại mềm và ngọt đậm.

Mùa xuân năm ấy, cậu Bông đi bộ đội, rồi sau này xuất ngũ về nơi hai sương một nắng trên đồng ruộng quê nhà. Còn tôi cũng đi bộ đội, nhưng đi sau cậu Bông mấy năm. Mỗi dịp đi tranh thủ về thăm quê hương vào mùa xuân, tôi lại tới thăm gia đình cậu Bông. Và thế nào tôi cũng được cậu đãi món ăn dân dã lươn nấu củ chuối tây. Ngồi vào mâm, chúng tôi cùng nâng bát đũa, nhưng lòng mỗi người như đều hướng cả về quá khứ tuổi thơ. Tôi cứ ngỡ mình và cậu Bông mới đi bắt lươn đêm hôm qua, hôm kia; và mình cùng cậu Bông cũng mới vừa ngồi chung một bàn học trong căn nhà mái rạ hôm qua, hôm kia.

KHÁNH TÙNG