 |
|
Tượng đài liệt sĩ đặc công rừng Sác. Ảnh: internet |
QĐND Online - Ca dao Nam Bộ có câu:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về
Chỗ chia hai ấy là nơi gặp nhau của ba con sông: Nhà Bè, Lòng Tàu và Soài Rạp. Cả ba con sông đều chảy trong Rừng Sác, một trong những chiến khu đặc biệt của miền Đông Nam Bộ. Đứng ở ngã ba sông nhìn lên Tây Bắc là chiến khu Dương Minh Châu, nhìn bên Đông Bắc là chiến khu Đ, nhìn xuống Đông Nam là chiến khu Rừng Sác - chiến khu của những anh hùng trên mặt nước ngập mặn.
Lòng Tàu là tên gọi gộp của nhiều đoạn sông thuộc huyện Cần Giờ, đông nam thành phố Hồ Chí Minh, dài khoảng 35km, rộng từ 300 - 600m. Sông này nổi bật hẳn lên về độ sâu và hoạt động ổn định của nước, của đất, quanh năm không có sương mù. Với độ sâu từ 9-29m, sông Lòng Tàu cho phép những tàu lớn tới hàng chục nghìn tấn đi qua. Nếu víSài Gònnhư một chiếc dạ dày khổng lồ thì Lòng Tàu là cổ họng, hai con sông Soài Rạp và Thị Vải là hai mạch chủ.
Lòng Tàu, con sông chia đôi Rừng Sác ấy được mệnh danh là “Yết hầu của Sài Gòn - Hòn Ngọc của Viễn Đông”, là cửa ngõ đại dương cực kỳ quan trọng của một vùng đất trời phương Nam, đồng thời là nơi chứng kiến những trận thủy chiến oanh liệt trong lịch sử của dân tộc ta.
Người anh hùng dân tộc áo vải Nguyễn Huệ đã có cái nhìn của một nhà quân sự thiên tài khi ông cho kéo đoàn thuyền chiến vòng xuống biển Nam rồi ngược sông Lòng Tàu để đánh chiếm thành Gia Định.
Xuân Nhâm Dần (1782), Nguyễn Huệ dẫn một đoàn thuyền chiến vào cửa Cần Giờ, đánh tan tác đội quân của Nguyễn Ánh gồm 400 thuyền chiến và 70 ghe lớn ngay tại Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang). Trận này có một chiếc tàu chiến của Bồ Đào Nha do viên sĩ quan Manuel vốn là chuyên viên hải quân Pháp chỉ huy, sang Việt Nam làm cố vấn huấn luyện thủy quân cho Nguyễn Ánh. Bị thua trận, Nguyễn Ánh tháo chạy về Định Tường, còn Manuel phải đốt tàu và tự thiêu.
Tháng 8 năm ấy, Châu Văn Tiếp lại chiếm Gia Định, đưa Nguyễn Ánh vào Sài Gòn. Được tin, tháng hai năm Quý Mão (1783), hai anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ kéo quân vào cửa biển Cần Giờ. Quân Tây Sơn tiến như nước chảy vào sông Lòng Tàu. Quân đi tới đâu, binh tướng của Nguyễn Ánh đều tan tới đó. Nguyễn Ánh lại một phen chạy bán sống bán chết về Tam Phụ.
Đầu năm 1859, sau khi quân Pháp đánh chiếm pháo đài phòng thủ Vũng Tàu, ngày 11/2, Pháp chuyển sang tiến công vào cửa biển Cần Giờ để thọc nhanh vào Sài Gòn, Gia Định. Suốt ba ngày đêm, quân ta đã kiên cường đánh trả quân xâm lược bằng vũ khí thô sơ.
Khi đất nước còn trong đêm trường nô lệ, sông Lòng Tàu đã chứng kiến nhiều cuộc tiễn đưa các nhà cách mạng của đất nước mà tiêu biểu nhất là năm 1911, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước.
Ngày 17/3/1950, Mỹ đưa hai chiến hạm vào sông Lòng Tàu, cập cảng Sài Gòn, định sử dụng một lực lượng lớn gồm 70 máy bay từ những tàu sân bay đậu ngoài khơi mở một cuộc tập trận để thăm dò dư luận và diễu võ dương oai. Nhưng chỉ một đêm sau (18/3/1950), bộ đội ta ở miền Đông đã sử dụng súng cối 82mm tự tạo, bắn một loạt 20 quả đạn vào hai chiến hạm làm 10 tên Mỹ bỏ mạng. Ngày 19/3/1950, hơn 3 vạn quần chúng Sài Gòn rầm rộ xuống đường biểu tình phản đối Mỹ và bè lũ tay sai, làm cho cuộc tập trận để dương oai của Mỹ thất bại ngay từ trong dự định. Hai chiến hạm Mỹ buộc phải vội vàng nhổ neo tháo chạy khỏi Sài Gòn. Từ đó, ngày 19 tháng 3 hàng năm trở thành “Ngày toàn quốc chống Mỹ”.
Ngày 26/5/1951, tiểu đoàn 300 chủ lực miền Đông đã lần đầu tiên dùng thủy lôi đánh chìm chiếc tàu quân sự Pháp trên sông Lòng Tàu. Tính sơ bộ, từ tháng 6/1951 đến tháng 7/1954 đã có 32 tàu địch bị đánh chìm hoặc đánh cháy trên sông Lòng Tàu và sông rạch Rừng Sác; có tới 8 trung đội, 13 tiểu đội địch bị diệt.
Khi Sài Gòn biến thành cái gọi là “Thủ đô Việt Nam cộng hòa”, sông Lòng Tàu trở thành “Yết hầu của cái dạ dày chiến tranh khổng lồ”. Ngoài việc xây mới cảng Sài Gòn, Mỹ còn xây thêm 6 cảng nữa, trong đó có cảng Nhà Bè, Cát Lái, Thành Tuy Hạ, Rạch Dừa, ở đầu và cuối sông Lòng Tàu để tăng cường khả năng tiếp nhận hàng quân sự. Từ đó, những đoàn tàu quân sự của Mỹ và phương Tây nối đuôi nhau theo Lòng Tàu vào miền Nam.
Nhưng Lòng Tàu, cái vạch xanh chia đôi Rừng Sác ấy vốn là một bãi triều ngập mặn, hoang vu với những “đám lá tối trời” và những hang động kỳ lạ, cũng trở thành chiến khu của những người anh hùng trên mặt trận sông nước. Xin đơn cử vài trận tiêu biểu:
Ngày 2/5/1964, các chiến sĩ biệt động Sài Gòn đã đánh chìm chiếc tàu sân bay Card tải trọng 15.000 tấn cùng 19 chiếc máy bay lên thẳng trên tàu của Mỹ tại cửa sông Lòng Tàu. Ngày 23/8/1966, cũng trên đoạn sông này, đặc công Rừng Sác đã sử dụng 2 thủy lôi đánh chìm chiếc tàu quân sự Mỹ. Đây là chiếc tàu hậu cần của quân đội Mỹ, trên tàu có 45 thủy thủ, 100 xe thiết giáp M.113 cùng 3 chiếc máy bay phản lực còn nguyên trong hòm bảo quản và một khối lượng lương thực, thực phẩm đủ nuôi cả một sư đoàn Mỹ suốt cả chiến dịch mùa khô. Tất cả đều bị vùi xác xuống đáy sông Lòng Tàu.
Sau thủy lôi, pháo của bộ đội Rừng Sác được “đặc công hóa” đã ra trận. Mục tiêu hàng đầu của bộ đội Rừng Sác không chỉ là tàu địch trên sông Lòng Tàu mà còn là các kho tang, quân cảng, nhất là các kho và cảng lớn như: Cát Lái, Thành Tuy Hạ,… vốn là những nơi nhận và tàng trữ một khối lượng khổng lồ các phương tiện chiến tranh. Đặc công Rừng Sác đã làm nên những tiếng nổ long trời ở Thành Tuy Hạ, một trong những kho bom đạn lớn cỡ nhất nhì Đông Dương thời đó. Còn kho xăng Nhà Bè có lần ăn đạn pháo của bộ đội Rừng Sác bị bùng cháy dữ dội sáng cả một vùng trời trong suốt 9 ngày đêm.
Ngày 19/5/1968, kỷ niệm lần thứ 78 ngày sinh nhật Bác, Đoàn 10 đặc công Rừng Sác đã đánh một trận lịch sử trên sông Lòng Tàu. Trong đó, chỉ trong vòng 30 phút riêng đại đội 2 dùng súng ĐKB đã bắn cháy một tàu chở dầu 10.000 tấn, bắn chìm một tàu hàng quân sự 7.000 tấn.
Ngày 21 và 22/8/1968, chiến sĩ Rừng Sác đã đánh một trận hiệp đồng tuyệt đẹp: khi dinh Độc Lập của Thiệu bị ăn đạn pháo thì trên sông Lòng Tàu, 5 chiếc tàu quân sự của Mỹ-ngụy tải trọng từ 5.000 đến 7.000 tấn bị bắn cháy. Sau đó địch phải đưa một tiểu đoàn quân Mỹ và một tiểu đoàn biệt động quân ngụy đến vùng này và bị giam chân ở đó ròng rã suốt một tháng trời.
Tiếp đó, trong các trận đánh ngày 10/10 và ngày 14/12/1968, đặc công Rừng Sác lại đánh chìm 2 tàu 13.000 tấn ngay tại cảng Nhà Bè. Có tới 30 triệu lít xăng bị thiêu hủy…
Tính chung, trên mặt trận sông nước và những quân cảng, trong Mậu Thân 1968, chiến sĩ Rừng Sác đã đánh chìm, đánh cháy và đánh bị thương 197 tàu, xà lan, trong đó có 55 tàu vận tải quân sự và tàu chở dầu, tải trọng từ 7.000 đến 13.000 tấn. Chính tên tướng Mỹ Oetmôlen đã phải kinh ngạc thốt lên: “Một cuộc chiến đấu kỳ lạ trong cuộc chiến tranh kỳ lạ”.
Có thể nói, con sông Lòng tàu là dòng sông của những chiến công vang dội gắn liền với một vùng chiến khu đặc biệt trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chiến khu Rừng Sác không hề giống bất kỳ một chiến khu nào ở Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên hay cực Nam Nam Bộ. Rừng Sác tồn tại trên nước ngập mặn, giữa cá sấu, sông sâu cản lối và bốn bề quân thù bao vây. Kẻ thù muốn lột từng lớp da của Rừng Sác, nhưng cội rễ cách mạng ở ngay trong lòng người như rễ cây đước, cây mắm bám sâu vào lòng Rừng Sác, để Rừng Sác đủ rộng, đủ sâu trùm lên Lòng Tàu. Sống giữa lòng dân, chiến sĩ Rừng Sác vẫn thường nhắc nhau: “Rừng Sác là nhà”. Cuộc chiến đấu thầm lặng, dai dẵng và hết sức gian lao của quân và dân Rừng Sác đã lý giải cho sự tồn tại của một chiến khu bên một dòng sông lịch sử trong vòng vây kẻ thù và bãi biển ngập mặn.
Những năm gần đây, cùng với cảng Sài Gòn, các kho tàng và bến cảng trên sông Lòng Tàu đã được tu sửa, mở rộng và hiện đại hóa để không ngừng tăng cường khả năng tiếp nhận hàng hóa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nhanh chóng của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và của cả vùng Nam Bộ nói chung trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vinh Quang