Trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, Nghệ sĩ nhân dân (NSND), Nhà quay phim Lý Thái Dũng, giảng viên Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội nhận định, thời cơ và thách thức đó làm nảy sinh những "lỗ hổng” cần được “vá” kịp thời để điện ảnh nước nhà có thể có được những thành công vững chắc hơn.

Nghệ sĩ nhân dân, Nhà quay phim Lý Thái Dũng. 

Thiếu đồng bộ, điện ảnh chưa thoát khỏi lối mòn

Phóng viên (PV): Trải qua gần một thế kỷ, hiện giờ điện ảnh Việt Nam đang đứng ở đâu, liệu Việt Nam đã thực sự có ngành công nghiệp điện ảnh chưa, thưa ông?

NSND Lý Thái Dũng: Sản phẩm-tác phẩm điện ảnh Việt Nam hiện đang có hai chủ sản xuất: Nhà nước và tư nhân. Với sản phẩm nhà nước quản lý (sản xuất bằng ngân sách nhà nước thông qua các hãng phim, doanh nghiệp do Nhà nước quản lý) từ nhiều chục năm nay phục vụ nhiệm vụ tuyên truyền là chủ yếu, ít quan tâm đến khía cạnh kinh tế.

Điện ảnh của tư nhân thì không như vậy. Với các tập đoàn, các công ty sản xuất phim thì lợi nhuận là sống còn. Chính vì vậy, mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức và mọi khâu từ sản xuất đến phát hành... đều hướng đến lợi nhuận. Mà trong nghệ thuật nói chung, bằng mọi giá để thu được lợi nhuận cao nhất luôn có mặt trái.

Phim điện ảnh ở Việt Nam hiện đang có vòng đời rất ngắn, có thể một tháng, phim nào may mắn hơn có thể trụ rạp chiếu 45 ngày đến hai tháng. Giá trị gia tăng từ bộ phim sau đó hầu như không đáng kể. Chính vì vậy, để bảo đảm lợi nhuận, để tránh phá sản thì các nhà sản xuất tư nhân càng phải giới hạn trong đề tài đầu tư, cắt giảm chi phí ở nhiều khâu.

Bức tranh chung mà ta nhìn thấy là hệ thống điện ảnh của chúng ta đang rất lúng túng, không đồng bộ trong khâu coi là sản phẩm hàng hóa đặc biệt. Vì thế, nói là “ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam” thì có vẻ hơi lạc quan quá. Trên thế giới hiện nay chỉ có vài nền công nghiệp điện ảnh thôi. Đó là Ấn Độ (Bollywood), Mỹ (Hollywood) và hiện đang có công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc. Để đạt được điều đó, họ có cả bề dày lịch sử phát triển của một ngành công nghiệp hàng hóa đặc biệt. Đi cùng là cả hệ thống đồng bộ từ đào tạo nhân lực sản xuất ở mọi quy trình đến các hành lang pháp lý dành cho cả con người và sản phẩm hàng hóa đặc biệt này. Còn ở Việt Nam, điện ảnh chỉ gọi là một ngành nghề thôi, chưa thể gọi là công nghiệp điện ảnh, bởi nó đang hoạt động nhỏ lẻ và manh mún, đang mò mẫm để tìm ra đường đi cho thích hợp, ở cả các nhà sản xuất và lĩnh vực quản lý nhà nước.

 Phim "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" - tác phẩm điện ảnh nổi bật có sự kết hợp sản xuất giữa Nhà nước và tư nhân.

PV: Vậy điện ảnh Việt Nam đang thiếu những yếu tố nào để có thể phát triển nền công nghiệp điện ảnh?

NSND Lý Thái Dũng: Cá nhân tôi nhìn thấy hai vấn đề: Một là đầu tư bài bản cho việc đào tạo nhân lực sản xuất ở mọi khâu; hai là bổ sung, hoàn thiện Luật Điện ảnh để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho ngành nghề sản xuất ra hàng hóa đặc biệt này phát triển.

Thị trường Việt Nam gần 100 triệu dân là thị trường lớn. Các nhà đầu tư nước ngoài họ thấy rõ tiềm năng, 7 năm trước doanh thu của thị trường điện ảnh Việt Nam khoảng 50 triệu USD, đến năm 2019 (trước khi đại dịch Covid-19 ập đến), tổng doanh thu phòng vé tại thị trường Việt Nam tăng lên 178,3 triệu USD (khoảng 4.100 tỷ đồng). Nhưng 80% thị phần của các rạp phim nằm ở tư nhân và các nhà đầu tư nước ngoài, tỷ lệ phim chiếu rạp tới 95% phim ngoại nhập, đồng nghĩa với việc đó là số tiền lợi nhuận thuộc về các nhà đầu tư nước ngoài. Chúng ta đang phải đối mặt với những người khổng lồ, đó là những bộ phim “bom tấn”, là những công ty, tập đoàn quốc tế lớn lấn át từ số lượng phim họ đầu tư sản xuất tại Việt Nam đến phim nhập chiếu rạp, đến tỷ lệ ăn chia phòng vé, rạp chiếu... luôn mang lại lợi nhuận cho họ nhiều nhất.

PV: Ông có nhắc đến nguồn nhân lực và vấn đề đào tạo. Vậy những yếu tố này có đáp ứng được công việc làm điện ảnh không?

NSND Lý Thái Dũng: Ở Việt Nam đang có hai trường: Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội và Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh TP Hồ Chí Minh. Nhưng nhìn cụ thể, một sinh viên Việt Nam hiện nay đóng học phí khoảng 11 triệu đồng/năm học. So sánh với một năm học ở trường có đào tạo điện ảnh các nước tiên tiến, sinh viên đó phải trả tối thiểu là 15.000USD đến 50.000USD, tức là từ khoảng 300 triệu đến hơn 1 tỷ đồng/năm. Con số này phần nào phản ánh về chất lượng đào tạo.

Trường đào tạo điện ảnh là trường nghề. Đào tạo nghề theo phương thức một nửa thời gian là đào tạo thực hành. Nhưng có một thực tế hiện nay, theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thì 100% giảng viên chuyên ngành của các trường nghệ thuật phải là thạc sĩ và tiến sĩ... Những giảng viên này trên thực tế chỉ đảm nhận được phần giảng dạy lý thuyết. Phần giảng dạy thực hành, truyền đạt kinh nghiệm nghề và lý thuyết nâng cao chỉ có thể có được ở những giảng viên nghệ sĩ, có đủ thời gian hành nghề thật sự, có đủ số lượng tác phẩm, có giải thưởng quốc gia và quốc tế. Đó là sự không chuyên nghiệp trong đào tạo. 

Luật Điện ảnh phải tạo nền tảng để làm phim chuyên nghiệp

PV: Hiện nay, chúng ta đang bàn nhiều đến Luật Điện ảnh (sửa đổi). Theo ông, cần sự thay đổi như thế nào cho phù hợp?

NSND Lý Thái Dũng: Luật Điện ảnh hiện hành có khá nhiều hạng mục định tính mà chưa định lượng. Phải đưa ra các nội dung cụ thể và được quy chuẩn bằng con số. Ví dụ, quy định hình ảnh biểu lộ tình cảm như khi hôn nhau... được phép kéo dài bao lâu trong một đơn vị cảnh, trong một bộ phim không quá bao nhiêu lần; các đạo diễn sẽ căn cứ vào những điều đó để mạch lạc trong quá trình sản xuất. Hoặc hình ảnh cơ thể con người không mặc quần áo được phô bày ra diện tích bao nhiêu phần trăm, trên màn ảnh (ở cận cảnh, trung cảnh, toàn cảnh cũng cần khác nhau) và được phép có độ dài với định lượng thời gian bao nhiêu giây, phút. Vậy, luật phải tiến tới ở một số hạng mục là chuẩn hóa bằng con số, quy chuẩn bằng định lượng rất cụ thể để gắn nhãn mác, quy định độ tuổi dành cho người xem. Những bộ phim có nhận xét là “nhạy cảm” cần phải được một hệ thống quản lý ở cấp cao hơn thẩm định, tránh để hội đồng duyệt lo ngại trách nhiệm và ra quyết định cấm phổ biến.

Có đến 90% số lượng các bộ phim điện ảnh là do công ty tư nhân sản xuất, đầu tư. Mà muốn có lợi nhuận thì sản phẩm phải hấp dẫn khán giả. Đây cũng là quan điểm chung của cả thế giới, cái gì thuộc về con người càng nhạy cảm, càng sốc, càng đặc biệt, đương đại, tức thời, nóng nhất trong xã hội hiện nay thì nó càng thu hút khán giả. Trên thế giới không có bộ luật điện ảnh nào có thể thỏa mãn toàn bộ, nhưng các nhà quản lý, làm luật luôn sửa đổi luật để thúc đẩy, tạo điều kiện để nền điện ảnh đó phát triển và hoạt động chuyên nghiệp. Và khi có nhiều lợi nhuận đo cụ thể được bằng tiền thì các nhà đầu tư mới có kinh phí để đầu tư vào những dự án điện ảnh phi lợi nhuận, Nhà nước mới có nhiều tiền thuế để phát triển và tái đầu tư cho điện ảnh.

PV: Cùng với thay đổi các quy định của luật, điện ảnh Việt Nam cần thay đổi như thế nào để có bước tiến xa hơn, thưa ông?

NSND Lý Thái Dũng: Sáng tạo nghệ thuật nói chung và điện ảnh luôn cần vượt ra khỏi lối mòn, cần sáng tạo cả trong nội dung và hình thức thể hiện. Cần có các nhà truyền thông, nhà báo, nhà lý luận phê bình, nhà nghiên cứu, các nhà xã hội học có uy tín phân tích, đánh giá các bộ phim trước, sau khi chiếu một cách bài bản, đúng luật để phân loại đối tượng có thể xem phim, qua đó giúp người xem, đặc biệt là khán giả trẻ cảm nhận tốt hơn về sản phẩm điện ảnh; kể cả những bộ phim có yếu tố “nhạy cảm” thì cũng là sản phẩm để các nhà quản lý, các nhà xã hội học nghiên cứu nhằm đưa ra định hướng dư luận cho người xem, định hướng sản xuất sau đó, tránh việc cấm ngay khi chưa nghiên cứu thẩm định kỹ lưỡng. Theo tôi, làm việc chuyên nghiệp có nghĩa là không ai làm khó cho ai cả.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

VƯƠNG HÀ (thực hiện)