Giống như nhiều dân tộc anh em trên vùng đất bazan đỏ au, họ mang trong mình kho tàng phong tục tập quán cùng di sản văn hóa đa chiều và đậm nét riêng biệt. Trong đó, kiến trúc nhà ở nổi lên như một báu vật văn hóa độc đáo, phản chiếu hồn cốt của sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên.
Nhà rông: Trái tim làng
Nhà rông được coi là linh hồn của làng, được đặt giữa trung tâm, bên dòng sông mát lành, dựng lên đầu tiên như lời tuyên ngôn: “Làng không nhà rông là làng đàn bà, chưa trọn hồn”. Các nhà dân quay mặt về nhà rông, tạo vòng tròn đoàn kết, nơi già làng chủ trì hội họp, lễ hội rộn ràng, hay nghi lễ tín ngưỡng thâm trầm. Bà Siêu Bích Ngọc (đại diện nhóm người dân tộc Ba Na đang sinh sống ở Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam) cho biết: “Theo phong tục của người Ba Na, già làng và con trai trên 15 tuổi của làng sẽ chuyển lên nhà rông để sinh hoạt”. Điều này cho thấy sự sẵn sàng bảo vệ làng của người dân Ba Na, nhà rông thành “sở chỉ huy” thường được đặt ở vị trí cao để dễ quan sát từ xa.
 |
Toàn cảnh nhà Rông của dân tộc Ba Na được tái hiện tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ảnh: Trâm Anh
|
Quy trình dựng nhà rông bắt đầu bằng tín ngưỡng. Già làng đặt ba hạt gạo giữa khu đất và cúng xin phép Giàng. Sau ba ngày, nếu hạt còn nguyên thì được coi là Giàng đã chấp thuận. Nếu hạt gạo mất hay có bất kỳ chuyện không may xảy ra thì phải chọn đất khác. Khi nhận được phép từ Giàng, cả làng họp bàn, phân công: Đàn ông chặt cây cà chít hoặc gỗ khác, dựng cột, làm vách; phụ nữ cắt cỏ tranh, đan tấm lợp mái. Đặc biệt, ba ngày đầu, mọi người kiêng ăn cá để mọi sự được an lành theo quan niệm của người Ba Na. Quá trình xây kéo dài hàng tháng, dùng gỗ, tre, nứa, dây mây, cỏ tranh, không kim loại, chỉ dựa vào rìu dao và sức người.
Nhà rông cao từ 15-20m, kiến trúc chữ A, mái cong lợp cỏ tranh, vách nghiêng “thượng thách hạ thu” – trên rộng, dưới hẹp – thoáng khí, chống thú rừng. Sàn cao 2-3m, hình oval cắt đầu, chia đôi dọc, tám trụ gỗ lớn tại ba gian, chạm khắc hoa văn tinh xảo. Cửa chính mở giữa mặt trước, qua sân sàn và cầu thang, đón gió rừng. Đây cũng là nơi để dân làng tụ họp, kể chuyện, hát hò, tổ chức lễ hội và tiếp khách.
Nhà sàn: Tổ ấm gắn kết thế hệ
Nhà sàn chính là tổ ấm của dân tộc Ba Na. Với thiết kế cao ráo, thông thoáng, chống mưa rừng và đất ẩm. Hình chữ nhật, ngang 10m, nhà đứng trên 12 cột gỗ cà chít (hoặc gỗ khác nếu hiếm), chôn sâu 1m hoặc tán đế xi măng chống lún, mối mọt. Cột đẽo tròn hoặc vuông, gốc 30cm, ngọn 20cm, đỉnh đục lỗ kết nối chính thượng. Sàn lát tre, nứa, lồ ô; vách trát đất trộn rơm hoặc phên tre, nhà khá giả lót gỗ dầu mát mẻ, bền chắc. Mái dốc 45 độ, lợp cỏ tranh hoặc ngói, với kỹ thuật đánh tranh điêu luyện: cỏ già cắt bằng gốc, bó gọn, kẹp le chẻ, buộc dây mây.
 |
|
Toàn cảnh khoảng sân vườn và nhà sàn của dân tộc Ba Na tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ảnh: Trâm Anh
|
“Có một điều tôi thấy đặc biệt trong quá trình xây dựng nên ngôi nhà đó là tinh thần đoàn kết của họ hàng, dân làng. Khi gia đình quyết định dựng hoặc sửa nhà, anh em, họ hàng quây quần, báo cáo: “Nhà cháu sửa nhà!”. Sau đó, chúng tôi sẽ phân chia công việc đàn ông lên rừng chặt cây, phụ nữ cắt tranh, đan vách, lát sàn. Trong 2-3 ngày liên tục, cả làng chung tay: Đàn ông dựng cột, làm vách; phụ nữ bó tranh, buộc lạt. Khi hoàn thành nhà, chủ nhà sẽ cùng dân làng giết trâu tạ ơn Giàng, một năm sau lễ tiếp tục cầu an”, bà Siêu Bích Ngọc chia sẻ.
Không gian nhà chia ba phần: Phía Đông cho cha mẹ, phía Tây cho con cái, chính giữa là “phòng khách” tiếp khách quý bằng chiếu trải, rượu cần. Bếp lửa đặt cách xa cầu thang, giữ an toàn. Bà Ngọc chia sẻ thêm: “Còn một nét đẹp độc đáo trong kiến trúc của nhà sàn, đó là “nhà chồ” – gian ló ra trước cửa chính giữa – tạo hình chữ T, không vách, hướng Nam đón gió, nơi phụ nữ giã gạo, gia đình hóng mát. Nhưng tiếc là ở đây vẫn chưa tái hiện được hết”. Cầu thang chính diện dẫn qua nhà chồ vào gian giữa, tiện lợi mà riêng tư. Nhà sàn thường có 6 gian, tăng giảm tùy số người, thành “nhà dài” nếu đông đúc.
 |
| Một phần góc bếp sinh hoạt của dân tộc Ba Na. Hiện tại không gian văn hóa tại đây đang được một nhóm đại diện là người dân tộc Ba Na sinh sống, làm việc và giới thiệu văn hóa của dân tộc mình đến với du khách tham quan. Ảnh: Trâm Anh |
Trong dòng chảy phát triển của xã hội hiện đại, kiến trúc truyền thống của người Ba Na đang đối mặt với nhiều biến đổi và thách thức lớn. Dù phong trào phục dựng được thúc đẩy, không ít nhà rông lại xuất hiện dưới dạng "kiểu mới" với mái tôn, sàn và vách bằng ván xẻ, thậm chí dùng cột, xà bê tông đúc và lắp cửa kính. Những thay đổi về vật liệu, chủ yếu vì lý do kinh tế và độ bền, giúp duy trì công năng không gian sinh hoạt, nhưng đồng thời làm phai nhạt hồn cốt văn hóa của ngôi nhà rông truyền thống.
Tuy nhiên, vượt lên những khó khăn và sự mai một, người Ba Na vẫn tha thiết tìm mọi cách giữ gìn nguyên bản kiến trúc của mình, bởi văn hóa Ba Na không thể thiếu vắng nhà rông. Chính những nỗ lực phục dựng kiến trúc nguyên bản đã khẳng định giá trị vượt thời gian của những công trình này. Nhà rông, nhà sàn truyền thống không chỉ là biểu tượng tinh thần, mà còn là điểm du lịch thu hút đông đảo du khách đến tìm hiểu, khám phá văn hóa, con người Ba Na. Do đó, việc tái hiện không gian nhà rông và nhà sàn Ba Na một cách chân thực tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam là một đóng góp quan trọng vào hành trình bảo tồn và phát huy di sản kiến trúc độc đáo này trong bối cảnh đương đại đầy biến động./.
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.