QĐND - Thỉnh thoảng, trong giấc ngủ chập chờn, Tuấn mơ thấy mình lại trở về với những năm tháng thơ ấu, nhà tranh vách đất, mấy anh em quây quần bên mâm cơm chỉ có bát muối vừng với một tô canh rau muống, cạnh đó là nồi cơm độn toàn sắn là sắn. Tuấn nhìn thấy hình ảnh mẹ cầm đôi đũa cả xới cơm. Bàn tay gầy guộc của mẹ đảo trong nồi cố tìm lấy một góc nào đó có nhiều hạt cơm để xới vào bát cho cậu út bé bỏng. Còn Tuấn và hai em mắt hau háu nhìn bát cơm, bụng đói sôi réo ùng ục, nước bọt tứa ra thèm thuồng.
Nghèo ư, điều này chẳng có gì xa lạ với Tuấn cả, vì nó chính là bạn đồng hành với Tuấn, với gia đình anh từ thuở anh mới lọt lòng. Năm Tuấn 18 tuổi, cái nghèo vẫn đeo đẳng, bám riết theo nhà anh đủ ngần ấy năm, chung thủy không rời xa. Từng ngậm đắng nuốt cay vì cái nghèo, Tuấn ở lúc ấy đang độ tuổi thanh niên, thề rằng sẽ quyết tâm đẩy nghèo khổ lùi xa cuộc sống gia đình mình, đem lại cuộc sống sung túc cho một nhà năm con người khổ sở. Nghèo thực đáng sợ nhưng ở tuổi thanh xuân phơi phới, nó lại là mầm mống nảy sinh một khát vọng mãnh liệt trong con người Tuấn: Khát vọng thoát đói nghèo.
Nhà Tuấn thực sự nghèo, rất nghèo, thuộc diện nghèo nhất cái xã vùng cao này. Mẹ anh người nhỏ thó, gầy gò như que củi khô, quanh năm đầu tắt mặt tối hết ra vườn, xuống ruộng, lại lên rẫy kiếm hạt lúa, củ sắn, lá rau nuôi đàn con nhỏ. Bố của Tuấn hết vào Nam lại ra Bắc để kiếm kế sinh nhai nhưng thất bại hoàn thất bại, đường cùng lại phải quay về quê ăn bám vợ con. Vì không chấp nhận được mối nhục này, ông sinh ra rượu chè bê tha, hoàn toàn bỏ quên mất gia đình.
 |
Ba anh em Tuấn đều đang tuổi ăn tuổi lớn, tuổi đi học. Trăm dâu đổ đầu tằm, cái gì cũng cần đến tiền, vậy mà nhà Tuấn thường xuyên không có thứ đó. Đầu năm học, mấy anh em đồng loạt về nhà xin mẹ tiền đóng học, bà Nga, mẹ Tuấn rơm rớm nước mắt, trong cái ví cũ kỹ của bà chỉ lác đác có mấy đồng bạc lẻ. Thế là bà tất tả, nháo nhào đi vay anh em, hàng xóm láng giềng. Thấy bà Nga ghé thăm, dĩ nhiên là ai cũng đoán ngay mục đích của bà rồi, vì năm nào vào khoảng thời gian này bà cũng đi vay nợ, gom góp từng khoản tiền một đóng học cho con. Ở quê Tuấn, hàng xóm tắt lửa tối đèn có nhau, không ai nỡ từ chối giúp bà. Nhưng có đôi khi lực bất tòng tâm, anh em, hàng xóm cũng kẹt tiền, họ cũng có con cái cần phải lo, vậy là bà Nga đành nuốt nước mắt chạy về nhà tìm kiếm những thứ có thể bán được ra tiền. Một vài tạ thóc, năm mười con gà, thậm chí đôi khi cả con chó trông nhà cũng được bà cho luôn vào danh sách ra chợ bán.
Nhưng có lúc, ngay cả bán hết những thứ nuôi trồng được của gia đình cũng không đủ tiền cho con ăn học, túng bấn thành ra quẫn trí, bà Nga bắt đầu than vãn, khóc lóc, gây chuyện với người chồng bất tài không chăm lo được cho vợ con. Kết quả là hai vợ chồng cãi vã nhau suốt ngày, mối bất hòa ngày càng lớn, cuộc sống gia đình càng thêm u ám, nặng nề.
Những năm tháng ấy, cả gia đình Tuấn như đang nắm tay nhau cùng đi trên một chiếc cầu treo chênh vênh, phía dưới là vực thẳm tối tăm, lạnh lẽo. Chỉ cần người đi đầu bước lệch chân thì kéo theo cả gia đình sẽ rơi xuống đáy vực sâu tuyệt vọng.
Tốt nghiệp trung học phổ thông, Tuấn quyết định nghỉ học đi nghĩa vụ quân sự. Anh không đăng ký thi vào bất cứ trường đại học, cao đẳng nào vì hiểu rõ mẹ không đủ tiền nuôi anh ăn học. Mẹ anh vì điều này mà lén khóc thầm đến quầng thâm hai mắt. Ngày Tuấn lên đường nhập ngũ, anh ôm lấy đôi vai gầy guộc của mẹ, hứa là sau khi hoàn thành nhiệm vụ của người lính anh sẽ trở về đi làm thuê để kiếm tiền giúp mẹ nuôi hai em ăn học.
Những năm trong quân ngũ, Tuấn được tôi luyện cái chí nam nhi, không sợ gian khổ, không sợ khó khăn, việc gì cũng cố gắng hết sức làm đến nơi đến chốn.
Hằng đêm, Tuấn thao thức suy nghĩ cách làm giàu. Anh thấy quê mình vốn vùng rừng núi, đường sá đi lại khó khăn, việc kinh doanh buôn bán có phần hạn chế nhưng không phải là không có bất cứ triển vọng nào. Ví như quê anh có khá nhiều sản phẩm quý giá của rừng, trong đó anh chú ý nhất là cây gỗ. Rừng quê anh đa số là rừng trồng. Nơi đây mười năm về trước bắt đầu rộ lên phong trào trồng cây bạch đàn, trồng cây keo tai tượng, cây bồ đề. Đến quãng thời gian này, khá nhiều vạt rừng đã có cây gỗ to hơn bắp đùi người trưởng thành. Trong khi đó, nhu cầu về gỗ ở thành phố mấy năm gần đây ngày càng bùng phát mạnh mẽ. Nhà cửa mọc lên như nấm sau mưa. Mà mỗi một tòa nhà xây dựng xong thì có biết bao nhiêu thứ vật dụng trong đó được làm từ chất liệu gỗ. Anh còn biết thông tin là mấy năm gần đây, việc xuất khẩu gỗ keo tai tượng sơ chế ra nước ngoài ngày càng tiến triển tốt hơn. Điều đó có nghĩa là những xưởng sơ chế gỗ làm ăn khá thuận lợi. Khi nghĩ đến điều này, Tuấn cảm thấy hưng phấn muốn gào thét lên trong lòng, anh cho rằng mình đã chọn được một hướng đi. Ước mơ đó như hạt giống được ấp ủ, bắt đầu nảy mầm trong trái tim anh, ngày một lớn dần lên, căng tràn nhựa sống.
Đôi khi không nén được, anh tâm sự cùng đồng đội nhưng họ cũng như anh, tuổi đời đều còn rất trẻ và chỉ có hai bàn tay trắng với bao trăn trở, khát vọng, họ cũng không nghĩ ra lời khuyên nào hữu ích cho anh cả. Chỉ duy nhất một người bạn cùng tiểu đội với anh nói một câu khiến anh phải ghi nhớ trong lòng: “Cậu muốn làm giàu thì trước tiên phải có vốn, không có vốn thì chỉ có nước đi làm thuê thôi”.
Đầu tiên, khi nghe người bạn nói câu đó, Tuấn cảm thấy rất thất vọng. Vì đó chính là yếu điểm chí mạng của anh, cũng như bao người trẻ tuổi nghèo khởi đầu lập nghiệp khác. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, Tuấn lại tặc lưỡi: “Làm thuê thì làm thuê, mình đâu có ngại việc, làm thuê chắt bóp dần dà khắc có vốn”.
Hết nghĩa vụ quân sự, Tuấn khoác ba lô trở về nhà ngày hôm trước, ngày hôm sau đã bắt đầu quãng thời gian làm thuê. Anh rời quê ra thành phố nhận làm mọi công việc khó nhọc từ bốc vác, phụ xây, chạy bàn đến xe ôm để kiếm thêm chút vốn liếng. Mấy năm vật lộn mưu sinh ở thành phố khiến cho làn da anh đen nhẻm, gương mặt góc cạnh, già đi thêm đến dăm bảy tuổi, nhưng cũng mang đến cho anh không ít trải nghiệm quý báu về cuộc sống, về công việc.
Lúc mẹ anh báo cho anh biết số tiền mấy năm làm thuê của anh gửi mẹ cất giữ đã đủ mua chiếc máy bóc gỗ như anh hằng mơ ước, anh lập tức rời thành phố trở về quê hương. Ngoài số tiền mẹ đưa, anh còn có một khoản tiền gửi ngân hàng. Đó chính là số tiền mà khi ra quân anh đã nhận được và cố gắng giữ lại. Anh vay mượn anh em, láng giềng thêm được một vài món. Vậy là một cái xưởng bóc gỗ nho nhỏ mới tinh đã ra đời ở cái xã nghèo miền trung du.
“Vạn sự khởi đầu nan”, Tuấn đã biết điều này từ lâu nhưng đến khi thực sự bắt tay vào việc kinh doanh, anh mới thấm thía được độ thâm sâu của câu nói này. Cái xưởng bóc gỗ non trẻ của anh như đứa trẻ sinh thiếu tháng, yếu ớt nằm trong lồng kính thở ô-xy, vận mệnh lay lắt, mong manh. Anh suốt ngày chạy long tong hết lo nguyên liệu đầu vào đến lo việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra, rồi lúc thì kẹt vốn, lúc thì máy móc lại giở chứng hỏng hóc, lúc lại thiếu nhân công làm việc. Đáng sợ nhất là khi anh bỏ hết sức lực, tâm huyết để làm ra một mẻ lớn sản phẩm thì phía đầu mối tiêu thụ lại ép giá hoặc lật lọng không chịu nhập hàng. Kết quả là số vốn liếng nhỏ nhoi của anh bị ứ đọng, khâu sản xuất bị đình đốn. Cậu chủ trẻ là anh thì mặt mày méo xệch, chạy tới chạy lui chỉ thiếu điều lạy lục, van xin những ông chủ nhập hàng hống hách, kiêu ngạo vì ỷ ta đây là kẻ có tiền.
Nhưng cái khó lại ló cái khôn, Tuấn bắt đầu hiểu ra nếu anh không xây dựng được hai điểm cốt lõi là đầu mối cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm tin cậy và vững chắc thì cơ sở làm ăn của anh sẽ hoàn toàn thất bại. Anh bỏ thời gian ra nghiên cứu từng đối tượng, tìm hiểu tâm tính từng người và lập ra một danh sách những người làm ăn chững chạc, biết trọng chữ tín. Anh bắt đầu tiếp cận những người này, thuyết phục họ bán nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm cho xưởng gỗ của anh. Rồi chính anh cũng ra sức cải tạo cái xưởng gỗ nhỏ bé của mình sao cho sản phẩm làm ra thực tốt, đảm bảo đúng tiến độ giao hàng.
Cuối cùng thì sau cơn mưa trời lại sáng, công việc kinh doanh của Tuấn ngày một khấm khá hơn. Anh có vốn để mở mang xưởng sơ chế gỗ, mua thêm máy móc, thuê mướn thêm nhân công làm việc. Điều làm anh đắc ý hơn cả là anh đã có điều kiện để giúp mẹ nuôi hai em ăn học. Cậu em kế anh đang học đại học năm thứ ba, cậu em út cũng sắp thi vào đại học. Nhưng mẹ anh không còn phải lo chạy đôn đáo đi vay tiền đóng học phí cho con nữa. Bà đã có thể thảnh thơi giúp anh một tay quản lý cái xưởng sơ chế gỗ ngày một phình to từ diện tích, máy móc, nhân công cho tới sản phẩm.
Giờ thì Tuấn đang dệt một giấc mơ lớn hơn. Anh ước mình sẽ có thêm một chuỗi công xưởng sản xuất khác, biến những mảnh gỗ thô kệch của vùng quê nghèo này trở thành những chiếc bàn, chiếc ghế, chiếc tủ, chiếc giường xinh xắn ở trong những tòa nhà cao vút kia. Ước mơ đó lại như một hạt giống quý giá khác, bắt đầu nảy mầm trong trái tim anh, hấp thụ bầu máu nóng tuổi thanh xuân, lặng lẽ vươn lên, đâm chồi ra lá, đón ánh bình minh.
Truyện ngắn của PHAN NHƯ