QĐND - Hệ thống di sản thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế đang được các cơ quan chức năng hoàn thiện hồ sơ đề cử và đề nghị UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức Thế giới. Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trò chuyện với TS Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.

- Xin ông cho biết nguồn gốc hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế trong lịch sử và hiện trạng di sản hiện nay?

- Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế vốn được tuyển chọn từ trước tác của các vị hoàng đế, thân vương, quan lại triều Nguyễn được chạm khắc, khảm cẩn, tráng men hay đắp nổi trên các công trình kiến trúc cung đình tại Huế trong giai đoạn 1802-1945. Hệ thống này bao gồm hàng nghìn bài thơ, bài văn, câu đối được thể hiện trực tiếp bằng nhiều loại hình chất liệu khác nhau (gỗ, xà cừ, pháp lam, sành sứ) trên 9 đơn vị công trình kiến trúc thuộc quần thể di tích Cố đô Huế, như một cách thức trang trí đặc biệt, riêng có tại Huế. Theo thống kê, trên kiến trúc cung đình Huế hiện còn 2.967 ô thơ văn chạm khắc, sơn thếp, cẩn xà cừ trên gỗ; 146 ô thơ văn viết tráng men thành pháp lam; 78 đơn vị ô hộc, câu đối, bài văn được đắp sành sứ. Đó thật sự là một "bảo tàng" sống động về nền văn học thời Nguyễn.

Bài thơ “Vũ trung sơn thủy” của vua Thiệu Trị (hình tròn bát quái, chính giữa) tại điện Long An, chỉ có 56 chữ nhưng có tới 128 cách đọc. Ảnh: hueworldheritage.org.vn

- Ông có thể nói rõ thêm về giá trị nội dung, hình thức của di sản tư liệu này?

- Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế thể hiện nhiều nội dung khác nhau, chủ đề chính đó là: Ca ngợi vương triều, ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị, đất nước độc lập, bờ cõi thống nhất, ca ngợi cảnh đẹp vùng đất đế đô... Riêng mảng văn thơ trên các quốc tự thì còn có chủ đề ca ngợi Phật pháp, ca ngợi tam giáo đồng nguyên và chủ trương của triều đình với đạo Phật...

Di sản thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế có giá trị rất độc đáo và không thể thay thế. Đây là dạng văn tự chữ Hán-một thứ ngôn ngữ được sử dụng chung trong các nước đồng văn, trong khối văn hóa Nho giáo suốt hàng nghìn năm qua nên có tính quốc tế và tính phổ biến rất cao. Hơn nữa, cách sử dụng thơ văn như một hình thức trang trí cho công trình kiến trúc, kể cả kiểu “nhất thi nhất họa” trên kiến trúc gỗ hay thi họa xen lẫn nhau trên công trình kiến trúc hiện đại ở giai đoạn sau cũng là phong cách hiếm gặp và gần như đã đi vào điển chế của triều Nguyễn. Phong cách trang trí này đã thực sự tạo nên một dấu ấn trong lịch sử mỹ thuật kiến trúc trang trí của Việt Nam. Đây là những tác phẩm mỹ thuật có giá trị cao trong trang trí một công trình kiến trúc, vừa có hiệu ứng lớn đối với cảm thức mỹ học của người thưởng thức. Văn tự được thể hiện là một bức tranh, là một bức thư pháp, vừa là một tác phẩm thủ công mỹ nghệ độc bản thể hiện sự tài hoa và tâm hồn của các nghệ nhân xưa.

TS Phan Thanh Hải. Ảnh do nhân vật cung cấp

Từ góc nhìn nội dung thì di sản này là những cứ liệu lịch sử chân xác nhất phản ánh tư tưởng một thời đại; phản ánh một số chính sách của triều đình; phản ánh về thế giới quan và nhân sinh quan của tầng lớp vua quan, hoàng thân quốc thích... và cũng phản ánh tài năng của các thi nhân.

- Việc bảo tồn hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế đang được thực hiện như thế nào, thưa ông?

- Có thể khẳng định, di sản này đang được Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế bảo tồn rất tốt. Nhiều cơ quan chuyên ngành bảo quản và bảo tồn đang nỗ lực nghiên cứu giữ gìn bằng nhiều biện pháp, đặc biệt là bảo quản các bức tranh và thơ văn trên pháp lam, tôn tạo, giữ gìn những bức tranh thơ ghép bằng sành sứ...

Hiện nay, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đang tiếp thu ý kiến các nhà khoa học để tổ chức nghiên cứu kỹ các tiêu chí lựa chọn, hoàn thiện hồ sơ đề cử và đề nghị UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức Thế giới. Chúng tôi đang tiến hành đánh giá đầy đủ giá trị thơ văn và số liệu tổng hợp chính xác thơ văn trên công trình kiến trúc cung đình Huế để đưa vào hồ sơ, minh chứng thuyết phục cho những giá trị mang tính xác thực, tính toàn vẹn, tính quý hiếm, tính độc đáo duy nhất, tính độc bản và tầm ảnh hưởng quốc tế của hệ thống tư liệu này. Ngoài ra, sẽ tiến hành so sánh với các nước đồng văn và một số nước lân cận, để làm rõ luận cứ là trên tất cả các công trình kiến trúc cung đình ở các nước này không có nghệ thuật trang trí “nhất thi nhất họa” như ở Huế.

- Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã lên kế hoạch cụ thể để quảng bá di sản này đến người dân trong và ngoài nước chưa, thưa ông?

- Toàn bộ hệ thống thơ văn đã quay phim, chụp ảnh, số hóa để lưu trữ phòng tránh những tình huống đáng tiếc bất ngờ xảy đến với di tích, cũng như để hạn chế việc phải sử dụng tư liệu gốc. Vì rằng, không thể cho tất cả mọi người tùy tiện quay phim, chụp ảnh nên nội dung tư liệu này đang được tổ chức dịch thuật và xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu có thể tra cứu. Đồng thời, chúng tôi sẽ xây dựng kế hoạch xuất bản sách giới thiệu về hình thức kết cấu câu thơ cũng như nội dung của thơ văn trên di tích cung đình Huế; xây dựng kế hoạch công bố nguồn tư liệu này dưới nhiều hình thức, đặc biệt là các ấn phẩm đã dịch ra tiếng Việt, tiếng Anh.

- Xin cảm ơn TS Phan Thanh Hải về cuộc trò chuyện này!

TRẦN HOÀNG HOÀNG (thực hiện)