Mới nhất là vụ việc làm vỡ bia đá cổ hơn 300 năm tại chùa Thổ Hà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Vì sao hiện tượng này cứ tồn tại mãi? Làm gì để không có thêm di sản văn hóa nào bị "phá" hỏng trong quá trình bảo tồn, trùng tu? Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã trao đổi với Kiến trúc sư (KTS) Lê Thành Vinh, nguyên Viện trưởng Viện Bảo tồn di tích, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để làm rõ vấn đề này.
Vì những mục đích riêng mà coi nhẹ nhiệm vụ bảo tồn di tích
 |
KTS Lê Thành Vinh. Ảnh do nhân vật cung cấp. |
Phóng viên (PV): Xin ông cho biết vì sao những sự cố trong bảo tồn, trùng tu di tích tái diễn thường xuyên?
KTS Lê Thành Vinh: Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc di tích bị biến dạng, hư hại và mất mát giá trị trong quá trình thực hiện các hoạt động bảo tồn, trùng tu. Sau các sự cố đáng tiếc đã xảy ra, có thể thấy trong từng trường hợp, trách nhiệm trực tiếp thuộc về chính quyền địa phương, chủ đầu tư, ban quản lý di tích, đơn vị tư vấn, nhà thầu hay thợ nghề. Như vậy, sai lầm của nhiều khâu đã gây hại cho di tích. Tôi cho rằng vấn đề cốt lõi là những người có trách nhiệm khi can thiệp vào di tích đã vì những mục đích riêng nào đó mà coi nhẹ nhiệm vụ bảo tồn di tích. Ví dụ: Xóa bỏ đình Lương Xá (huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội) cũ để xây mới bằng bê tông cho “khang trang” hơn; loại bỏ các thành phần điêu khắc cũ làm lại cái mới ở đình Đồng Kỵ (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) để có những cấu kiện bền vững hơn, đồng thời thể hiện khả năng hiện nay của làng nghề; thay một cái cổng cũ bằng cổng mới to hơn ở chùa Bối Khê (huyện Thanh Oai, TP Hà Nội) là theo ý muốn của trụ trì chùa. Còn sự cố làm vỡ bia đá cổ ở chùa Thổ Hà thì những người thực hiện muốn di chuyển bia để nhằm mục đích nâng cao nền khuôn viên chùa mà không hề có giải pháp tương ứng để bảo vệ một cổ vật của di tích đã được xếp hạng.
Khi không trân trọng những giá trị của di tích, coi việc bảo tồn chúng là mục đích tối thượng, cẩu thả trong thực hiện thì sự cố xảy ra là điều khó tránh khỏi và tái diễn hết lần này đến lần khác.
 |
Bia đá chùa Thổ Hà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) bị làm vỡ trong quá trình tu bổ, tôn tạo chùa. Ảnh do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang cung cấp. |
PV: Bảo tồn, trùng tu di tích là một ngành khoa học, nhưng dường như các cấp chính quyền, cơ quan quản lý di tích và nhân lực thực hiện lại chưa có nhận thức đầy đủ, thiếu kiến thức để làm tốt?
KTS Lê Thành Vinh: Bảo tồn di tích là một khoa học chuyên ngành. Những người hoạt động trong lĩnh vực này cần có kiến thức tổng hợp, thấu hiểu và giải quyết hàng loạt vấn đề phức tạp của di tích liên quan đến các chuyên ngành lịch sử, văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật và các vấn đề xã hội khác, như: Phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng...
Mặt khác, trong bảo tồn, trùng tu di tích cũng có thể đồng thời đáp ứng những nhu cầu liên quan khác, như: Điều chỉnh, mở rộng những không gian chức năng, tạo các điều kiện tiện nghi hơn cho người sử dụng và du khách, tôn tạo cảnh quan, môi trường... có nghĩa là mục đích bảo tồn di tích không loại trừ các nhu cầu cần thiết, hợp lý khác. Chẳng hạn, đối với các di tích hiện vẫn giữ chức năng là cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng, khi nhu cầu sử dụng tăng lên, trong điều kiện cho phép, có thể mở rộng, bổ sung những không gian như nơi sắp lễ, chỗ cho khách nghỉ chân, khu vệ sinh... Tuy nhiên, điều quan trọng, cốt lõi nhất là phải giữ cho được những thành phần vật chất, những dấu tích lịch sử cùng với các giá trị của di tích đã được xác định. Vì thế, những người có trách nhiệm quản lý và thực thi hoạt động bảo tồn, trùng tu di tích phải nhận diện, thấu hiểu được các giá trị của di tích, biết cái gì cần phải bảo tồn, đồng thời đề ra được nhiều giải pháp kỹ thuật cần thiết, phù hợp trên cơ sở một hệ thống lý thuyết chuyên ngành sâu rộng, đồng thời cần có những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế thì mới có thể thực hiện tốt được. Những câu chuyện đau lòng xảy ra với các di tích bị hủy hoại sau trùng tu cho thấy kiến thức và năng lực của nhiều cơ quan quản lý và thực thi trùng tu di tích hiện còn thiếu hụt rất nhiều, đó là một thực tế.
Phải chuyên nghiệp hóa nghề bảo tồn, trùng tu
PV: Xin ông cho biết, hiện trạng nguồn nhân lực hiện nay đã đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ trùng tu, tôn tạo di tích hay chưa?
KTS Lê Thành Vinh: Năm 2012, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Thông tư số 18/2012/TT-BVHTTDL quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích. Thông tư quy định rõ tổ chức, cá nhân tham gia công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích phải có chứng nhận và chứng chỉ hành nghề. Theo tôi, quy định này rất cần thiết nhưng cần hiểu rằng đây mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ để các tổ chức, cá nhân có thể làm tốt nhiệm vụ bảo tồn, trùng tu di tích. Nói cách khác là cần phải có các đơn vị và đội ngũ chuyên nghiệp thực hiện công việc này.
Một đơn vị trùng tu di tích chuyên nghiệp là phải có đội ngũ chuyên nghiệp, tức là có cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và thợ chuyên ngành được trang bị kiến thức đầy đủ, có năng lực vận hành những kiến thức đó vào công việc và có kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực này. Trên thực tế, nhân lực chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo tồn, trùng tu di tích còn rất mỏng, chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội. Nhiều tổ chức có đủ điều kiện hành nghề trùng tu di tích, nhưng không thực sự chuyên nghiệp lại vẫn đã và đang là các nhà thầu nhận nhiệm vụ trùng tu di tích, vì thế mới xảy ra những hệ quả đáng tiếc như đã nêu.
PV: Xin ông cho biết về giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho lĩnh vực này?
KTS Lê Thành Vinh: Cần có một chiến lược đào tạo căn cơ và lâu dài. Hiện nay, những người được cấp chứng chỉ hành nghề tu bổ di tích là những người có chứng chỉ về các hoạt động nghề kiến trúc, xây dựng và đã tham gia chương trình bồi dưỡng kiến thức về tu bổ di tích. Trước mắt, đây là cách làm cần thiết. Nhưng các chương trình bồi dưỡng kiến thức đó hoàn toàn chưa đủ để tạo ra đội ngũ chuyên nghiệp. Về lâu dài, cần phải có những phương thức đào tạo chuyên sâu về chuyên ngành đặc biệt này, để tạo ra đội ngũ chuyên nghiệp và có thể yên tâm hơn khi giao cho họ đảm trách công việc trùng tu.
Nhìn theo những góc nhất định, người làm trùng tu can thiệp vào di tích cũng không khác gì bác sĩ can thiệp vào cơ thể con người. Người làm trùng tu vì thế phải được đào tạo bài bản, tỉ mỉ. Bởi, khi can thiệp sai cách vào di tích, những giá trị lịch sử, văn hóa nếu bị mất đi thì không bao giờ lấy lại được. Một yếu tố quan trọng nữa là năng lực đội ngũ làm công tác quản lý di tích. Chỉ một nhận thức, mệnh lệnh sai sẽ tác động và ảnh hưởng đến chất lượng trùng tu di tích.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
TRẦN HOÀNG HOÀNG (thực hiện)