QĐND - Ngày 22-12-1788, một tháng ba ngày trước lúc ra lệnh mở màn Chiến dịch giải phóng Thăng Long đầu Xuân năm Kỷ Dậu 1789, từ trên ngọn Bân Sơn ở bờ nam dòng sông Hương của Kinh thành Huế, Quang Trung Nguyễn Huệ đã cho sang sảng truyền đi lời “Chiếu lên ngôi”:

- Trẫm có cả thiên hạ, sẽ cùng dắt dìu dân chúng lên con đường lớn, đặt vào đài Xuân!

Cái đài Xuân mơ ước của cả dân tộc tự lâu đời ấy, đến Xuân này đang tưng bừng các lễ hội lịch sử từ những di sản văn hóa mới được tôn tạo trên đất Thủ đô.

Ngay từ đầu Xuân, rất sớm, đã là lễ hội từ di tích Đống Đa. Một ca khúc rất hay, vào loại sớm nhất trong lịch sử nền tân nhạc Việt Nam, không hiểu sao bây giờ ít cất tiếng, nhưng từ đầu những năm 40 của thế kỷ trước, đã hát về lễ hội Đống Đa, rằng: Từng đoàn dân chúng trên Đế đô tưng bừng đi/ Tìm về thăm chốn thiêng biết bao trang hùng vĩ…

Tưng bừng hào khí lễ hội truyền thống Đống Đa. Ảnh: Đông Hà

Ngày ấy, đi lễ hội Đống Đa, gọi là đi “giỗ trận Đống Đa”, thật thấm đẫm nhân văn! Ngôi chùa Đồng Quang-của hai làng Nam Đồng và Thịnh Quang xây gộp lại-ở ngay trước gò Đống Đa, diễn trường chính của lễ hội, vào dịp này cũng luôn ngân nga lời kinh kệ và tiếng chuông mõ, có ý rằng: Trận mạc xong rồi thì hãy để lòng cho những người đã trận vong ở chiến trường…

Nhưng lại đang có một ngộ nhận lớn về quả gò Đống Đa này. Rất nhiều người và sách nói rằng: Đấy là quả gò thứ 13 trong số “Thập nhị Kình Nghê quán” (12 đống thây xác giặc) mà đến hồi giữa thế kỷ 19, mở đường, mở chợ qua chỗ chiến trường Đống Đa này, vẫn còn thấy xương cốt vãi vương dưới lòng đất, nên người ta đã quy tập về, chồng chất và đắp đất lên thành quả gò này!

Thật là hoang đường! Làm gì có đủ-dù nhiều đến mấy-xương cốt để chất ngất lên đến hơn 10m cao và 6000m2, là kích cỡ của quả gò Đống Đa này? Vả chăng, đi vào ngõ 64 Nguyễn Lương Bằng (trước là phố Nam Đồng), sẽ gặp ngay ngôi chùa cổ Càn An, trông thẳng ra gò từ phía bắc. Tấm bia niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 3 (1621) của chùa, rành rẽ khắc ghi câu chỉ dẫn: “Trước mặt chùa có ngọn thổ sơn ở phía nam”. Ngọn “thổ sơn”-núi đất, núi tự nhiên-ấy chính là gò Đống Đa! Có nghĩa: Ít nhất thì 168 năm trước trận Đống Đa, nó đã có ở đó rồi. Cho nên, chỉ là và có chuyện: Sau trận đánh hơn 50 năm, tìm thấy thêm một số xương cốt khi kiến thiết lại chiến trường xưa, người ta mới dùng nó để chôn cài thêm-vào mấy chỗ quanh chân gò-những chiếc tiểu sành quy tập hài cốt, như bây giờ thỉnh thoảng lại thấy lộ ra ở đấy, mà thôi.

Đến năm kỷ niệm chẵn hai thế kỷ chiến thắng Đống Đa (1989), có chủ trương dựng tượng đài Quang Trung ở Công viên văn hóa Đống Đa bao quanh quả gò Đống Đa này. Tượng đã được tạo tác đẹp. Cho tới nay vẫn là đẹp nhất trong số tượng đài Quang Trung trên cả nước. Trên gò Đống Đa đặt một tảng đá 6 tấn, khắc vào đấy lời bất hủ của Quang Trung trước khi cho nghĩa quân vào trận, với câu kết xuất thần cực hay: “Đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ” (Đánh cho chúng biết nước Nam anh hùng là có chủ).

Bây giờ thì tượng lại đứng ở mặt tiền một kiến trúc phỏng cổ, khang trang, vừa là chỗ cúng giỗ tâm linh, vừa có thể làm hội trường cùng bảo tàng. Và trông ra sân hành lễ, chứng kiến tấm lòng cùng tâm thức người Thủ đô, cứ sớm Xuân mồng Năm Tết âm lịch lại rầm rộ đến, vừa để tưởng niệm và tôn kính những trận vong từ hơn 200 năm trước, vừa để vui chơi giải trí với các thú vị hiện đại.

Hà Nội đã qua 6 năm mở rộng Thủ đô. Và 4 năm sau ngày đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, với hàng trăm di tích lịch sử-văn hóa, cách mạng-kháng chiến được ồ ạt trùng tu, tôn tạo. Chỉ riêng với chủ đề Hai Bà Trưng, sự nghiệp này đã ôm trọn vào lòng Thủ đô cả ba di tích tín ngưỡng Hai Bà quan trọng nhất là: Đền Hạ Lôi, đền Hát Môn, cùng với tòa đền Đồng Nhân cố hữu.

Xuân này, sân đền Đồng Nhân thành nơi nghỉ ngơi vui chơi của mọi người, bởi ngôi chùa Viên Minh ở mé trái đền, xưa vốn chỉ là phụ cận, nay lại thành nơi lễ lạt chính. Hai tòa đền kia vừa được vinh dự xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nếu ở Hát Môn, cuộc bảo lưu bền bỉ một màu đen chung cho các đồ thờ ở đây là “tín hiệu chìm”, rất có giá trị trong việc thông tin “xuyên thời gian” sự thực lịch sử về cái chết không hề mát mẻ trong dòng sông quê hương, mà thảm khốc đổ máu, thậm chí mất đầu của Hai Bà, đúng nghĩa quyết liệt với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Vì thế, đồ thờ mới toàn dùng màu đen, để “kiêng màu máu”-như lời giải thích của các cố lão địa phương. Nhưng nay màu đen cổ truyền quý hóa ấy đang có nguy cơ bị đè át đi bởi những sặc sỡ lòe loẹt!

Mải miết những chuyện “hình thức chủ nghĩa” mà chưa thật chú trọng đến chiều sâu đúng đắn của thực chất các giá trị và ý nghĩa cổ truyền, công cuộc thực hiện nguyện ước từ hơn 200 Xuân trước của Quang Trung Nguyễn Huệ: “Dắt dìu dân chúng lên con đường lớn, đặt vào đài Xuân”, trong đó có sự nghiệp đặt di sản vào đài Xuân, xem ra vẫn còn nhiều việc cần phải làm cho đến nơi đến chốn hơn.

GS LÊ VĂN LAN