QĐND - Lần đầu tiên ở Việt Nam diễn ra một liên hoan sân khấu đặc biệt chỉ gồm các vở diễn của một tác giả. Tác giả được Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam và Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch chọn ở đây là Lưu Quang Vũ, người đã từng là "hiện tượng sân khấu" thời kỳ đổi mới, đã từng “kéo” hàng triệu người xem đến sân khấu, ngay từ những năm 1970-1980. Những ngày diễn ra liên hoan này, sau 25 năm ngày mất của Lưu Quang Vũ, phòng khán giả các rạp Đại Nam, Công Nhân, Nhà hát Tuổi Trẻ lúc nào cũng chật cứng. 

Cảnh trong vở 'Hồn Trương Ba, da hàng thịt' của Nhà hát Kịch Việt Nam.

 

Nhân dân-hình tượng lớn nhất trong kịch Lưu Quang Vũ

Sau đúng 25 năm, khán giả Thủ đô mới được sống lại khoảng thời gian mà đêm nào sân khấu kịch cũng sáng đèn và đông nghịt người xem. Trong 10 năm đỉnh cao, Lưu Quang Vũ cho ra đời 50 vở kịch, con số khiến nhiều người ngỡ ngàng, phải dùng đến hai từ “kỷ lục”. 25 năm sau ngày ông mất, chưa tác giả sân khấu nào làm được điều đó.

Theo nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái, Lưu Quang Vũ là một hiện tượng sân khấu bật sáng rõ ràng của thời kỳ đổi mới. Thời kỳ đó, nếu không có đổi mới chung trên mọi phương diện văn chương nghệ thuật, thì không có đổi mới về kịch bản văn học, như một khâu thiết yếu nhất dành cho sáng tạo vở diễn sân khấu. Là một nhà thơ tài năng đích thực và cuộc sống riêng trải qua quá nhiều thăng trầm, ở Lưu Quang Vũ sớm hình thành một thứ trực giác thi ca cực kỳ tinh tường và bén nhạy. Bằng trái tim của một thi sĩ, ông có tài nhìn thấu tận đáy vấn đề, nhìn thấu những xung đột trong xã hội để rồi nhanh chóng nắm bắt bản chất và đưa thẳng vào kịch bản sân khấu, vốn là nơi chứa đựng cao nhất những khả năng phát ngôn, bình luận trực tiếp và những suy tư đau đáu về nhân sinh, xã hội luôn đặt ra trong sự phức tạp, ngổn ngang đau thương và vất vả tìm đường phát triển của xã hội Việt Nam hiện đại. Chính vì thế, trong hầu như các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đều hiện diện hoặc đều lắng sâu một nỗi đau thấm thía nhân tình. Quả thật, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã đau đớn thật sự, đau đến tận gan ruột, với nỗi đau của nhân dân, nhân loại…Bởi vậy, những vấn đề ông đặt ra là những bức xúc và nhức nhối tồn tại xuyên suốt từ giai đoạn xã hội này sang giai đoạn xã hội khác, từ không gian này sang không gian khác, thậm chí xuyên thời gian như những lời dự báo, những tiên cảm. Trong kịch Lưu Quang Vũ, vì thế, cái vĩnh cửu luôn song hành với tính thời sự. Hoặc chúng được khởi đầu từ thời sự mà có thể chạm tới cái vĩnh cửu.

Cũng theo nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái, các nhân vật mà Lưu Quang Vũ yêu mến nhất, tha thiết nhất trong những kịch bản văn chương của ông chính là những người dân bình thường trong xã hội Việt Nam hiện đại, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Cho nên, hình tượng sân khấu lớn nhất trong kịch Lưu Quang Vũ chính là nhân dân: Người làm vườn, người cắt tóc, anh bộ đội, những bé Tí, bé Tị, Sila, anh hàng thịt, nhà giáo nghèo, em bé bán báo, em bé mồ côi mẹ, những nàng dâu hiếu thảo, người vợ thủy chung, người mẹ đôn hậu…, với những thân phận và cảnh ngộ rất bình dân, thông thường trong xã hội.

Chưa đến giờ diễn nhưng rạp đã kín chỗ

 

Khi nhìn nhận và phát hiện những vấn đề từ các nhân vật hết sức bình dị này, Lưu Quang Vũ  đã nhìn rất tinh tế và tránh cái nhìn đơn điệu một chiều. Là thi sĩ có trực giác mạnh nên bao giờ Lưu Quang Vũ cũng có cái nhìn nhân hậu, ấm áp, cảm thông, bên cạnh một cái nhìn dân chủ, mang tính hài hước, giễu cợt và phản biện. Vì vậy, những vấn đề ông phát hiện về hình tượng nhân dân, bao giờ cũng mang tính thời sự mạnh, đúng với thời điểm lịch sử. Người dân nghĩ gì về thể chế, về những bất ổn trong quản lý xã hội, trong đạo đức kỷ cương xã hội đang bị phai hóa và cách hành xử của cơ quan hành pháp với nhân dân nên như thế nào để không xảy ra những bi kịch xã hội, như trong kịch bản “Lời thề thứ 9”, “Ai là thủ phạm”, “Vụ án 2000 ngày”, “Mùa hạ cuối cùng”. Và vì thế, những vấn đề triết học nhân sinh lớn lao, day dứt từ xã hội Việt Nam hiện đại do Lưu Quang Vũ phát hiện đã được cất cánh từ những kịch bản tưởng chừng chỉ nóng bức trong tính thời sự của nó, để bay cao trên đôi cánh triết lý như “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” hoặc “ Ông vua hóa hổ”.

Công chúng không hề thờ ơ với sân khấu

Một trong những mục đích mà liên hoan các tác phẩm của tác giả Lưu Quang Vũ hướng tới là tạo làn sóng mới cho sân khấu Việt Nam, để lấy lại người xem, cũng như giúp các thành phần sáng tạo sân khấu, từ tác giả đến đạo diễn, diễn viên, họa sĩ, nhạc sĩ và cả công chúng xem kịch… có những bài học kinh nghiệm về mọi phương diện sân khấu, nhất là về kinh nghiệm viết kịch… từ Lưu Quang Vũ. Các nhà hát dù tự bỏ tiền dựng vở, kinh phí đi lại, ăn ở trong thời gian diễn ra liên hoan, nhưng đều rất háo hức tham gia. Giám đốc Nhà hát Kịch Quân đội, NSƯT Minh Hằng cho biết, khi nhận được thông báo mời tham gia liên hoan này, dù đang rất bận với nhiều nhiệm vụ chính trị phải thực hiện, nhưng nhà hát vẫn cố gắng tham gia vì coi đây là dịp tạo điều kiện cho các nghệ sĩ, diễn viên của nhà hát thể hiện tình yêu, tâm huyết, lòng kính trọng của mình qua các vai diễn, vở diễn đối với Lưu Quang Vũ.

Cảnh trong vở "Ông không phải là bố tôi" của Nhà hát Kịch Hà Nội.

 

Công chúng cũng cho thấy, họ không hề thơ ơ, quay lưng với sân khấu. Bằng chứng chính là những suất diễn đông nghịt khán giả. Một tuần liền, ngày hai buổi, ở đâu có kịch Lưu Quang Vũ ở đó rạp chật ních người xem, thậm chí có những hôm khán giả phải đứng xem từ ngoài hành lang. Đây rõ ràng là một luồng sinh khí mới cho sân khấu phía Bắc. Vấn đề đặt ra là, trong thời gian diễn ra liên hoan vé được phát miễn phí, nếu phải bỏ tiền mua vé, liệu các vở kịch của Lưu Quang Vũ có thu hút được nhiều khán giả đến vậy không? NSƯT Chí Trung tự tin trả lời: “Với hiệu ứng như thế này, với sự quan tâm về anh Vũ tốt như thế này, thì tôi bảo đảm 70% lượng khán giả đến xem sẽ bỏ tiền mua vé”.  Minh chứng mới nhất là tối 8-9, thời điểm liên hoan chưa bắt đầu, Nhà hát Tuổi trẻ diễn vở “Mùa hạ cuối cùng” khán giả đến xem được nửa rạp, vé là do khán giả bỏ tiền mua, ông Trương Nhuận, Giám đốc Nhà hát Tuổi trẻ cho biết. Theo ông, vấn đề của sân khấu kịch hiện nay là quảng bá tác phẩm đến công chúng.

Một vấn đề nữa được nhiều khán giả đặt ra khi xem các vở diễn của Lưu Quang Vũ là bây giờ rạp hiện đại hơn, sân khấu, phục trang đẹp hơn, ánh sáng, âm thanh tốt hơn trước nhiều, các đạo diễn cũng rất cố gắng tìm tòi, sáng tạo, nhưng khi xem khán giả vẫn thấy các vở diễn còn chưa đạt đến chiều sâu nhiều tầng lớp ý nghĩa của kịch bản. Phải chăng chúng ta vẫn thiếu những đạo diễn trẻ thật tài năng, hiếm hoi diễn viên ngôi sao?

Đạo diễn xử lý như thế nào để vẫn trung thành với tư tưởng của kịch bản nhưng lại không cần trung thành từng chi tiết đến mức nô lệ vào kịch bản. Kịch bản có thể phải sắp xếp lại, phải dùng phương tiện này khác để dàn dựng, song, xin đừng làm sai lạc, đừng thêm nếm vô lối, đừng vẽ rắn thêm chân, để mọi xử lý đạo diễn và diễn xuất sân khấu phải thật nhuyễn, không sống sượng. Đừng hy vọng cái tác động hình thể (thân xác) của diễn viên,  vốn chỉ nhằm gây tác động về "phần nhìn" tới người xem, sẽ khiến người ta nhớ lâu. Để công chúng yêu mê, diễn viên phải diễn đến tận… đáy chữ, diễn ăn ý với thông điệp kịch bản, nếu không thì nhà văn viết kịch bản cho ai?

Khi ướm vào những kịch bản có giá trị văn học, có giá trị sân khấu lớn mới thấy sự kế cận của những đạo diễn, sự kế cận của những diễn viên, nghệ sĩ còn nhiều hẫng hụt, như là chân quá nhỏ mà đi đôi giày quá cỡ. Chẳng hạn, khi cần diễn viên đóng vai Châu trong “Mùa hạ cuối cùng”, Nhà hát Tuổi trẻ phải chấp nhận chọn Tùng Linh. Tùng Linh phải đóng vai 18 tuổi trong khi tuổi thật của Linh đã là 30. Trong khi Chí Trung, Đức Hải, Lan Hương ngày xưa đóng vở này vào đúng độ tuổi của mình nên có sự cảm thông, chia sẻ, hóa thân vào nhân vật rất dễ đẹp về hình thể và hay về diễn xuất. Hiện nay, đôi khi diễn viên phải bằng thủ pháp, phải cố, phải gượng… ông Trương Nhuận bày tỏ.

Vấn đề thiếu hụt đạo diễn, thiếu hụt tài năng diễn viên là có thật. Khi đụng đến những kịch bản sân khấu có giá trị đã được định vị thì mới thấy, đó là điều đáng báo động về đào tạo sân khấu. Có lẽ, khoảng trống về kịch bản mà Lưu Quang Vũ để lại vẫn chưa thể lấp đầy. Nên chăng, các nhà hát tiếp tục phát huy hiệu ứng của liên hoan, tiếp tục diễn các vở kịch của Lưu Quang Vũ nhưng đầu tư dài hơi, có chiều sâu cho các vở diễn để hoàn thiện đội ngũ những người làm nghề, và hơn hết là để công chúng có cái để xem, để nhớ, để nghĩ và để yêu.

Bài và ảnh: MINH NHÃ