Có điều là những di tích hay bảo tàng vẫn thuộc về những thiết chế văn hóa khả dĩ cung cấp thông tin về lịch sử và văn hóa mang tính tiêu chuẩn của các đô thị. Hà Nội cũng không khác, nhất là về mặt thống kê có tới hơn 5.000 di tích, trong đó có 16 di tích quốc gia đặc biệt và hơn 10 bảo tàng.

Tôi đưa thầy đến Văn Miếu-Quốc Tử Giám, nơi mà tôi nghĩ là có cá tính khác biệt so với phương Tây. Những hiện vật từ thời Lê đến thời Nguyễn là bằng chứng cho một đời sống văn hóa phương Đông, lại được bảo tồn khá tốt để gợi ra được không khí cần thiết của di sản.

Đột nhiên giữa chừng, thầy dừng lại ở khu vực biểu diễn nhạc truyền thống và chăm chú thưởng thức một nghệ sĩ đang vừa hát vừa tự đệm đàn bầu. Thầy ngồi xuống ghế xem trọn bài, trong khi không có khách nào khác. Nữ nghệ sĩ chừng như biết có khách lắng nghe, tỏ ra vui hơn.

  Du khách quốc tế tham quan Văn Miếu - Quốc Tử Giám, tháng 2-2019. Ảnh: THANH TÙNG.

Hóa ra đó là một bài tân nhạc, bài hát "Làng tôi" của Chung Quân. Lúc kết thúc đợt giảng, thầy có ý muốn nhờ tôi tìm giúp các bản thu của bài hát này. Thật ngạc nhiên vì bài hát ở một buổi đi thăm Văn Miếu lại gây được ấn tượng cho một thầy giáo từ Anh có gốc Tây Ban Nha đến vậy. Thầy nói bài hát gợi cảm giác rất Việt Nam, dĩ nhiên, thầy chỉ cảm nhận qua giai điệu.

Tất nhiên, thầy vẫn chăm chú theo dõi những thông tin về các tục lệ thi cử và thầy khoái chí chụp lại bức tranh khắc gỗ dân gian của Henri Oger năm 1905 thực hiện vẽ cảnh trường thi xưa, nơi các học trò phạm quy bị phạt. Chắc thầy nghĩ đến những sinh viên hiện đại và cuộc đấu trí nhiều khi hài hước trong việc truyền thụ kiến thức thời nay so với cái thời “quân, sư, phụ” là ba bậc trên trong mối quan hệ truyền thống (vua, thầy, cha).

Câu chuyện bài hát vang lên ở không gian di sản khiến tôi nghĩ đến những tác dụng không ngờ của các phương tiện trong những khoảng không gian quy ước. Đâu phải chúng ta đưa khách đến thăm bằng được các hiện vật trực tiếp, các mô tả đầy đủ về nơi chốn là đã đủ. Nhiều khi các hoạt động sống ở những nơi đó có tác dụng thổi hồn vào di tích, tạo ra sự kết nối nhiều chiều.

Bài hát "Làng tôi" kể về một ký ức quê hương thời bình và trong khói lửa chiến chinh năm 1950 không phải tự nhiên lại gây được cảm giác gắn bó. Đây là bài hát đã nổi tiếng khi ra đời và được các nghệ sĩ: Kim Chung, Kim Xuân hát trong bộ phim đình đám "Kiếp hoa" (1953), bộ phim nói tiếng Việt hoàn chỉnh đầu tiên còn lưu lại đến giờ. 

Làng tôi có cây đa cao ngất từng không

Có sông sâu lờ lững vờn quanh...

Những làng quê như vậy chính là cái nôi nuôi dưỡng những sĩ tử đèn sách để tạo ra môi trường giáo dục thời trung đại và đến lượt môi trường ấy hình thành nên những không gian quy ước như Văn Miếu. Tôi chỉ cho thầy giáo thấy những cây đa, cây muỗm cổ thụ trong Văn Miếu, chính là những loài cây cũng có mặt ở những làng quê như bài hát đã ngợi ca. Thầy ngạc nhiên khi thấy những ông bình vôi và những nén hương người ta cắm lên các ngách thân cây.

Tôi đã giải thích cho thầy về mô hình xã hội Việt Nam, nơi các triết lý sống của cộng đồng là một sự hòa trộn nhiều luồng tư tưởng và tập quán sinh hoạt; nơi các nội dung được truyền đạt thông qua những lối nói có tính biểu tượng, mơ hồ và phải vận dụng những trải nghiệm văn hóa để hiểu được. Đó cũng chính là những lý thuyết mà tôi được tiếp cận trong khóa cao học.

Cũng chính sự giao thoa này khiến tôi nghĩ rằng các không gian trưng bày và biểu diễn văn hóa truyền thống ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung còn phải cần những bước giải mã để giúp cho người bên ngoài và nhiều khi chính bản thân chúng ta tái hấp thụ các ý nghĩa của di sản. Dĩ nhiên, một hệ thống di sản dày đặc ở Hà Nội không thể trình bày trong vòng một chuyến đi trong ngày cũng như sự điểm xuyết vốn dĩ rất nhiều sơ lược của những người thực hành văn hóa, chẳng hạn như tôi với tư cách một hướng dẫn viên không chuyên.

Nhưng rõ ràng, kiến thức tự thân và mối hiểu biết liên ngành văn hóa là rất quan trọng để giúp những màn giới thiệu văn hóa không phải món ăn nguội lạnh với du khách, mà cũng còn giúp người truyền đạt dễ dàng hơn. Những cây đa, cây muỗm cũng là thứ chẳng chỉ riêng các làng quê, mà ngay các đô thị như Hà Nội cũng cần có để một không gian sống nương tựa vào.

Ở trường hợp thầy giáo tôi, một giai điệu âm nhạc giúp cho vị tiến sĩ chuyên ngành truyền thông và báo chí nắm bắt không khí Việt Nam nhanh hơn, cảm xúc hơn. Nó giúp cho tôi, một người quan tâm đến sự chuyển hóa các hình thái văn hóa đại chúng trong đô thị một thế kỷ qua tự tin hơn về sử dụng những vốn kiến thức về tân nhạc, về lối sống người Hà Nội, về những mối liên kết giữa thị dân và cố hương, về cách thức diễn đạt cái cũ bằng phương tiện mới.

Mỗi lần đi qua thấy thấp thoáng Khuê Văn Các, nhìn thấy những mái đao của nhà bia cùng các tòa nhà của di tích vươn lên sau hàng rào gạch vồ cổ xưa thấp ngang đầu người, giữa những rặng cây muỗm xanh, tôi cảm thấy nhẹ cả người. Tôi mong hình ảnh ấy còn mãi, để mà có thể chỉ cho những người bạn khác thấy và tin được rằng, nó chính là một góc hồn nước, hồn làng và hồn đô thị nữa.

Nhà văn NGUYỄN TRƯƠNG QUÝ