QĐND -  Như chúng ta đã biết, Bộ đội Cụ Hồ-Quân đội nhân dân không chỉ là một đội quân chiến đấu. Bên cạnh thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chính trị to lớn là giành được độc lập cho dân tộc, thống nhất cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, quân đội ta còn thực hiện song song hai chức năng khác là đội quân công tác và sản xuất, điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định khi quân đội ta đã trưởng thành. Sở dĩ như vậy, vì quân đội ta là một tổ chức quân sự của nhân dân, từ nhân dân mà ra và vì bảo vệ nhân dân mà đã chiến thắng được mọi kẻ thù xâm lược. Cho nên, muốn tồn tại, lực lượng vũ trang ấy phải tự tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc trong nhân dân, như “con cá bơi trong nước”.

Về “đội quân chiến đấu” đã được bàn nhiều, có lẽ không cần nói thêm. Chỉ biết rằng Quân đội nhân dân Việt Nam lập được những chiến công "kinh thiên động địa" vì đã biết tiếp thụ và kế thừa truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc, tiếp thụ lý luận quân sự Mác - Lê-nin và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, tuyệt đối trung thành với đường lối quân sự của Đảng, đã anh dũng chiến đấu trong đội hình chiến tranh nhân dân, với một tổ chức quân sự, có hai thành phần-quân đội thường trực làm nòng cốt cùng lực lượng rộng rãi quần chúng vũ trang-và ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Nhưng bên cạnh những nhân tố trên, trong hơn 30 năm chiến tranh, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quân đội ta còn biết tạo nên những quả đấm thép của quân chủ lực để chuẩn bị cho những trận quyết chiến chiến lược.

Bộ đội Lữ đoàn 82 (Quân khu 2) làm công tác dân vận. Ảnh: Minh Trường.

Trong việc thực hiện chức năng đội quân công tác, quân đội ta luôn gắn bó mật thiết, đồng cam cộng khổ với nhân dân, thực sự là cầu nối vững chắc và tin cậy của Đảng và Nhà nước với nhân dân. Sống trong lòng dân, bộ đội ta luôn tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; đoàn kết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ra sức giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xóa mù chữ, khám chữa bệnh, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa, ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đồng bào công giáo. Quân đội ta cũng là lực lượng xung kích trong cứu hộ, cứu nạn, hết lòng giúp dân phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, xả thân trong hiểm nguy để cứu tính mạng và tài sản của nhân dân.

Ngày 25-9-1955, một cơn bão lớn đổ bộ vào Hải Phòng, nước biển dâng cao, tràn vào các xã ven đê thuộc các huyện Hải An, Thủy Nguyên, Kiến Thụy, gây tổn thất nặng về người và tài sản của nhân dân. Các đơn vị vũ trang được lệnh hành quân cấp tốc, tham gia chống lụt, cứu dân và cứu hộ đê bao bị vỡ. Đồng chí Phạm Minh Đức, chiến sĩ Đại đội 1, Trung đoàn 53, Sư đoàn 350 liên tục vật lộn với sóng gió, cứu được 14 người. Anh đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Phạm Minh Đức là anh hùng đầu tiên của quân đội ta được tuyên dương trong thời kỳ xây dựng hòa bình.

Mùa thu năm 1957, miền Bắc có bão lớn, đê Mai Lâm (Đông Anh, Hà Nội) bị vỡ, nước tràn, ngập trắng đồng ruộng, xóm làng. Không ngại khó khăn, vất vả, hy sinh, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ ngày đêm dầm mình dưới nước xiết, nắm chắc tay nhau làm hàng rào, chặn dòng nước lũ, để bộ đội và nhân dân đóng cọc, làm kè, đổ đá, hàn vá đoạn đê bị vỡ.

Ngày 1-10-1958, công trình đại thủy nông Bắc Hưng Hải (Bắc Ninh- Hưng Yên-Hải Dương) được khởi công. Bộ Tổng tham mưu đã điều động các sư đoàn chủ lực của bộ và các lực lượng vũ trang của Quân khu Tả Ngạn, Quân khu Hữu Ngạn, cùng 1000 cán bộ, chiến sĩ binh chủng công binh đến tham gia xây dựng.

Tham gia lao động sản xuất và phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng là một nhiệm vụ chính trị, có ý nghĩa chiến lược và lâu dài của quân đội ta.

Với tinh thần “sản xuất cũng là một mũi tiến công”, quân đội ta đã chủ động ra quân trên nhiều lĩnh vực sản xuất, mạnh dạn đi vào nhiều ngành kinh tế mũi nhọn, vừa bảo đảm một phần nhu cầu hậu cần thiết yếu của quân đội, góp phần giữ gìn năng lực sản xuất quốc phòng, nâng cao sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội, vừa góp phần làm phong phú thị trường tiêu dùng trong nước.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, thực hiện chủ trương của Đảng về giảm quân số, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 23-8-1956, Bộ Quốc phòng đã thành lập Cục Nông binh và điều chuyển 8 vạn cán bộ, chiến sĩ sang làm nhiệm vụ sản xuất. Các đơn vị này đã tham gia khôi phục kinh tế đất nước, xây dựng các nhà máy tại Thái Nguyên, Việt Trì, triển khai xây dựng 29 nông trường quân đội trên miền Bắc như: Nông trường Mộc Châu, Nông trường Đông Hiếu…

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân đội ta đã khắc phục khó khăn, gian khổ, mở đường xẻ dọc Trường Sơn, thiết lập những binh trạm, căn cứ hậu cần tại rừng U Minh, Chiến khu Đ, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên… sản xuất vũ khí, cung cấp nhu yếu phẩm cho bộ đội.

Ngay sau khi thống nhất đất nước, Chính phủ đã ra nghị định thành lập Tổng cục Xây dựng kinh tế, đồng thời chuyển một lực lượng lớn quân đội (gần 28 vạn cán bộ, chiến sĩ) sang làm kinh tế.

Đặc biệt trong công cuộc đổi mới, nhất là bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quân đội ta đã phát huy vai trò nổi bật là làm nòng cốt trong việc xây dựng các khu kinh tế-quốc phòng trên những địa bàn chiến lược, biên giới, vừa tham gia phát triển kinh tế-xã hội, vừa tăng cường tiềm lực và thế trận an ninh-quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Đến năm 2013, quân đội đã xây dựng được 22 khu kinh tế-quốc phòng trên  những địa bàn chiến lược. 

Lực lượng quân đội làm kinh tế được tổ chức lại chặt chẽ và khoa học theo mô hình doanh nghiệp. Đến nay, so với 20 năm trước, số lượng doanh nghiệp quân đội chỉ còn một nửa nhưng quy mô và năng lực của từng doanh nghiệp đã lớn mạnh hơn nhiều. Đồng thời, nhiều doanh nghiệp quân đội cũng đã xác lập được vị trí, tạo dựng được uy tín trong cộng đồng các doanh nghiệp và trên thị trường, tích cực tham gia vào những lĩnh vực, những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Tiêu biểu là Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel), Tổng công ty Trực thăng Việt Nam, Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Tổng công ty xây dựng Trường Sơn, Tổng công ty 15… Trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp quân đội luôn gắn chặt hai nhiệm vụ: Quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng. Và vì vậy, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất quốc phòng, các doanh nghiệp quân đội còn sản xuất ra nhiều sản phẩm kinh tế, phục vụ phát triển kinh tế dân sinh, đồng thời góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.

Bộ đội Cụ Hồ-Quân đội nhân dân thật đặc biệt, thống nhất, cao quý từ tên gọi đến hành động.

DƯƠNG XUÂN ĐỐNG, Nhà nghiên cứu văn hóa quân sự

Bài 1: Danh xưng mang tính biểu tượng văn hóa quân sự