QĐND Online – Nhìn lại chặng đường 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam không thể không nhắc đến những chiến sĩ của Điện ảnh Quân đội. Họ đã hòa mình cùng những đoàn quân ra trận, “vũ khí” mang theo là chiếc máy quay phim. Từ trong khói lửa chiến tranh, họ đã ghi lại những thước phim sống động về tinh thần chiến đấu anh dũng của quân và dân ta trên khắp các chiến trường. Để có được những thước phim tư liệu quý lưu giữ cho các thế hệ mai sau, nhiều chiến sĩ quay phim bị thương và dũng cảm hy sinh, nằm lại đất mẹ trên các chiến trường. Chiến tranh đã lùi xa gần 40 năm nhưng những thước phim tư liệu của các chiến sĩ quay phim quân đội từng quay dưới làn “mưa bom bão đạn” của quân thù vẫn mãi là ngọn đèn soi sáng cho những thế hệ hôm nay và mai sau tiếp bước khúc quân hành của những người chiến sĩ năm xưa.
Khởi đầu từ con số không
Ngày 17-8-1960, Đoàn Điện ảnh Quân đội chính thức được thành lập. Biên chế ban đầu có 52 đồng chí, do đồng chí Dương Minh Đẩu làm Đoàn trưởng. Chức năng, nhiệm vụ chính của đơn vị là sản xuất phim thời sự, phóng sự tài liệu, phim giáo khoa quân sự, phim truyện, góp phần tuyên truyền công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội và huấn luyện kỹ chiến thuật cho bộ đội. Ngoài ra, còn có nhiệm vụ quan trọng là quay phim tư liệu về các hoạt động quân sự mang tính bí mật quốc phòng để lưu giữ lâu dài.
 |
| Chiến sĩ Điện ảnh Quân đội quay phim tù binh ở chiến trường khu 5. Ảnh tư liệu Điện ảnh Quân đội. |
Những ngày đầu mới thành lập, khó khăn thiếu thốn trăm bề, lực lượng sáng tác, nhân viên kỹ thuật chuyên ngành, các loại máy móc, thiết bị quay phim, sản xuất phim đều thiếu. Lúc đó, cả đơn vị chỉ có 2 máy quay 16 ly, 4 máy ảnh và 1 bàn dựng phim thủ công.
Phát huy truyền thống tự lực, tự cường của quân đội, Điện ảnh Quân đội bắt tay vào xây dựng đơn vị từ điểm xuất phát gần như là con số không. Dựa trên chức năng, nhiệm vụ được giao, cùng với những yêu cầu đặc thù của một đơn vị sản xuất phim, bước đầu đã nhanh chóng kiện toàn công tác tổ chức, hình thành một số bộ phận chuyên môn như: Ban biên tập, Ban quay phim, Ban Tư liệu và các bộ phận hành chính, hậu cần, ánh sáng, khói lửa, cơ khí, kỹ thuật…
Đoàn Điện ảnh Quân đội ra đời có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử xây dựng và phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị, đưa loại hình nghệ thuật điện ảnh trở thành vũ khí sắc bén trên mặt trận văn hóa tư tưởng, công cụ tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho bộ đội và nhân dân.
Ngày đó, tuy là đơn vị nghệ thuật non trẻ mới được thành lập nhưng đã kịp thời đáp ứng nhu cầu làm phim trong chiến tranh khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy cam go thử thách.
Gặp NSƯT Dương Minh Đẩu, nguyên là Giám đốc đầu tiên của Điện ảnh Quân đội, ông kể lại sự nhập cuộc của đội ngũ làm phim Quân đội ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ: “Trong sự kiện ngày 5-8-1964, ngay ngày đầu xảy ra chiến sự, Đoàn Điện ảnh Quân đội đã cử các tổ quay phim đến nơi diễn ra những trận đánh Mỹ đầu tiên trên miền Bắc ở Sông Gianh- Quảng Bình, Bến Thủy- Nghệ An, Lạch Trường- Thanh Hóa, Bãi Cháy- Quảng Ninh để ghi lại hình ảnh cuộc chiến đấu. Ngày đầu chưa có kinh nghiệm quay phim chiến đấu với máy bay Mỹ, nhưng anh em đã ghi lại được nhiều hình ảnh chân thực ngay trên các trận địa pháo cao xạ, tàu Hải quân của ta đánh trả quyết liệt máy bay Mỹ”.
Bộ phim phóng sự - tài liệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” được ra đời bằng tinh thần quả cảm của đội ngũ quay phim Quân đội ngay những ngày đầu của cuộc chiến tranh. Bộ phim đã cổ vũ kịp thời tinh thần quả cảm chiến đấu của quân và dân ta với ý chí sắt đá: “ Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Những trận thử lửa đầu tiên trong chống chiến tranh phá hoại của quân và dân miền Bắc là những chiến dịch oanh tạc hết sức khốc liệt của không quân Mỹ vào các đảo tiền tiêu nằm trên vịnh Bắc Bộ như Cồn Cỏ, Hòn Mê, Bạch Long Vĩ. Ngay giữa những ngày chiến tranh khốc liệt ấy, Đoàn Điện ảnh Quân đội đã cử các tổ quay phim đến những nơi đang nóng bỏng, khói lửa bom đạn để làm phim.
 |
| Quay phim trong chiến tranh năm 1967 tại Hà Nội. Ảnh tư liệu Điện ảnh Quân đội. |
NSƯT Lê Lâm năm nay đã ngoài 80 tuổi, nguyên là đạo diễn của Điện ảnh Quân đội, từng là tác giả của nhiều bộ phim tài liệu trong những năm chiến tranh, nhớ lại những ngày bom đạn ác liệt khi làm phim “Người Hàm Rồng” ông kể:“Ngay từ đầu năm 1965, Mỹ mở chiến dịch “Mũi tên xuyên”, tập trung lớn lực lượng máy bay các loại đánh phá có tính chất hủy diệt cầu Hàm Rồng, hòng cắt đứt tuyến độc đạo vận chuyển Bắc-Nam của ta. Đoàn làm phim của chúng tôi có nhiệm vụ vào trực quay tư liệu những hình ảnh chiến đấu ác liệt ở đây, đồng thời nghiên cứu hình thành bộ phim phản ánh tình hình chiến sự. Đoàn đi vào đây có tôi với vai trò làm đạo diễn, anh Hoàng Văn Bổn viết kịch bản, các anh Lê Văn Bằng, Nguyễn Mạnh Nhiễu, Phạm Ngô, Vương Đức Cừ quay phim. Trong những ngày chúng tôi ở đây, địch đánh phá hết sức khốc liệt. Có ngày chúng tập trung đánh hàng chục trận vào các trận địa phòng không, cầu Hàm Rồng, vào cả các làng mạc dân cư, gây nhiều tổn thất cho ta. Tuy bom đạn ác liệt nhưng anh em quay phim vẫn bám sát các trận địa, ghi lại được nhiều hình ảnh chiến đấu ngay trên khu vực Nam Ngạn- Hàm Rồng, để sau này chúng tôi xây dựng thành bộ phim tài liệu “Người Hàm Rồng” gây xúc động cho người xem trong nước và thế giới”.
Làm phim xung kích - chiến thuật mạo hiểm
Theo nhà báo Nguyễn Toát, nguyên đạo diễn, quay phim chiến tranh của Điện ảnh Quân đội nhân dân, làm phim xung kích là một chiến thuật mạo hiểm bởi các chiến sĩ làm phim quân đội luôn phải xông pha ở tuyến đầu của những trận chiến đấu ác liệt mà "vũ khí" mang theo chỉ là..... những chiếc máy quay ghi lại những hình ảnh của các chiến sĩ xung kích trên mọi mặt trận làm cốt truyện rồi kết hợp với các hình ảnh hành động khác tạo nên các bộ phim.
“Làm phim xung kích được hiểu đơn giản là mỗi đội hình quay phim đến một hướng hay địa điểm , gặp sự kiện nào đó khi trở về phải làm được ít nhất là một phim dạng phóng sự tài liệu, chứ không phải là thước phim thời sự hoặc tư liệu lưu trữ. Đây là cách làm phim mạo hiểm và rất khó khăn thời bấy giờ”, đạo diễn Nguyễn Toát nhấn mạnh.
Dẫu biết trước những khó khăn, nguy hiểm đến tính mạng khi thực hiện nhiệm vụ quay phim tại chiến trường nhưng những chiến sĩ của Điện ảnh Quân đội vẫn sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Vì thiếu người và trang thiết bị nên một người phải kiêm nhiệm 3 nhiệm vụ cùng lúc, vừa là đạo diễn, biên kịch, quay phim.
Là một trong những chiến sĩ làm phim xung kích của Điện ảnh Quân đội hồi ấy, NSND Đặng Xuân Hải, Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam nhận nhiệm vụ quay phim tại chiến trường Trị Thiên vào tháng 2-1964. Ông đi theo mũi chiến đấu của Tiểu đoàn 1, Quân khu Trị - Thiên với mật danh là K1 xuất kích vào chiều 30 Tết trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Ngay trong đêm đầu tiên, mũi tiến công của ta đã chọc thủng tuyến phòng ngự của địch ở cửa Chánh Tây, đột phá vào Thành nội Huế. NSND Đặng Xuân Hải đã quay được cảnh đánh chiếm sân bay Tây Lộc, cảnh tổ chiến đấu xung phong kéo cờ giải phóng lên cột cờ Huế, trước cửa Ngọ Môn. Cuốn hút vào trận đánh mịt mù khói lửa bom đạn, chiến sĩ Đặng Xuân Hải tiếp tục quay được nhiều cảnh chiến đấu ác liệt trên đường phố của các chiến sĩ tự vệ, bộ đội chủ lực và những tên sĩ quan Mỹ, ngụy bị bắt.
 |
| Bữa cơm chia tay trước khi lên đường nhận nhiệm vụ mới tại rừng Trường Sơn của các chiến sĩ Điện ảnh Quân đội, NSND Đặng Xuân Hải, Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam (giữa). Ảnh tư liệu Điện ảnh Quân đội. |
Trong suốt 25 ngày đêm bám sát cuộc chiến đấu cam go, quyết liệt, chiến sĩ Đặng Xuân Hải đã bị thương khi đang quay phim trong khu Đại Nội.
Trong chiến dịch này, tổ quay phim của đồng chí Nguyễn Hồng Sáu đi theo một đơn vị chiến đấu đánh vào phía Nam thành phố Huế, quay được cảnh chiến đấu ác liệt, xông vào phá nhà lao Thừa Phủ, giải thoát hàng trăm tù chính trị, cùng nhiều chiến sĩ của ta bị địch bắt giam cầm ở đây.
Do được bố trí lực lượng quay phim trực tiếp tại các khu vực trọng điểm nổ ra chiến sự, bộ phim “Một vài hình ảnh chiến thắng đầu xuân 1968”, sản xuất năm 1969, đã phản ánh tầm vóc của cuộc tiến công làm sụp đổ âm mưu chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, trong đó có những cảnh quay rất “đắt” của hai nhà quay phim chiến trường là NSND Đặng Xuân Hải và đồng chí Nguyễn Hồng Sáu.
Trong thời kỳ đầu mới thành lập, dù phải làm phim trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn nhưng các chiến sĩ của Điện ảnh Quân đội đã vươn lên làm chủ trang thiết bị, máy móc, thực hiện nhiều bộ phim phóng sự, tài liệu có chất lượng tốt về hình ảnh và nội dung, kịp thời phục vụ bộ đội và nhân dân. Trong đó có các phim “Đại đội Lê Hồng Phong”, “Những người lính trẻ”, “Giữ gìn khí tài quang học ở phân đội”…
Thời kỳ này, Điện ảnh Quân đội đã sản xuất được 11 cuốn phim thời sự, 3 bộ phim phóng sự, 5 bộ phim tài liệu, 11 bộ phim giáo khoa. Số phim trên đã đánh dấu bước trưởng thành nhanh chóng của đội ngũ làm phim quân đội trong ngày đầu mới thành lập.
Bài, ảnh: KHÁNH HUYỀN