Những bước tiến dài và vững chắc
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của chúng ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nhà nước pháp quyền với định nghĩa cơ bản nhất là không ai ở trên luật pháp. Mọi người đều phải tuân theo pháp luật. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật. Pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đương nhiên, để được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh, pháp luật phải luôn phù hợp với quy luật khách quan, luôn thúc đẩy, tạo điều kiện cho xã hội phát triển vì hạnh phúc của mọi người. Chính vì lẽ đó, để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho các nhiệm vụ quan trọng nói trên.
Trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng đã có những bước đi khá dài và vững chắc. Đại đa số các hoạt động liên quan đến quân sự, quốc phòng-an ninh trong nước đã được luật hóa. Đến nay, chúng ta đã ban hành được các đạo luật: Luật Quốc phòng; Luật An ninh quốc gia; Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Luật Công an nhân dân (sửa đổi năm 2014); Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015; Luật Dân quân tự vệ; Luật Giáo dục quốc phòng, an ninh; Luật Phòng, chống khủng bố; Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; Luật Nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; Pháp lệnh Cảnh sát cơ động; Pháp lệnh Cảnh sát môi trường; Pháp lệnh về tổ chức điều tra hình sự; Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam...
Đặc biệt, năm 2013, chúng ta đã thông qua bản Hiến pháp mới trong đó có rất nhiều nội dung mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân; công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân”. Các quy định về nhiệm vụ của Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng… trong lực lượng vũ trang cũng đã được thể hiện trong Hiến pháp mới. Các vấn đề mới về việc quyết định lực lượng vũ trang nhân dân tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới cũng đã được bổ sung vào Hiến pháp.
Căn cứ vào Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Chính phủ đã giao cho Bộ Quốc phòng xây dựng Dự án Luật Quốc phòng (sửa đổi).
Dự án Luật Quốc phòng (sửa đổi) đã được Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội tổ chức thẩm tra và phối hợp với cơ quan soạn thảo hoàn thiện hồ sơ để báo cáo Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ tư, với những nội dung lớn được sửa đổi, bổ sung, như phát triển nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với quốc phòng, an ninh; yêu cầu quản lý nhà nước tập trung, thống nhất đối với quốc phòng, an ninh; quy định về Hội đồng Quốc phòng, an ninh; bổ sung yếu tố văn hóa, đối ngoại trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và tiềm lực khu vực phòng thủ; kết hợp quốc phòng với kinh tế, văn hóa, xã hội và kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng; thể chế hóa quan điểm của Đảng về hội nhập quốc tế... Luật Quốc phòng (sửa đổi) dự kiến được thông qua tại Kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XIV sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục xây dựng, sửa đổi các luật chuyên ngành, như Luật Dân quân tự vệ, Luật Lực lượng dự bị động viên, Luật Cảnh sát biển... nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã khẳng định nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội và môi trường hòa bình để xây dựng, bảo vệ đất nước; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”. Để thực hiện được tốt nhiệm vụ này cần phải có các giải pháp đồng bộ, trong đó có giải pháp quan trọng là tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng để thể chế hóa đầy đủ quan điểm của Đảng về xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân, binh chủng tiến thẳng lên hiện đại, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống; tiếp tục quan tâm đến cơ chế, chính sách để tăng cường nguồn lực cho quốc phòng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng...
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, nhất là những vấn đề về an ninh phi truyền thống, đã và đang đặt ra yêu cầu hợp tác quốc tế sâu rộng để giải quyết. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với công tác bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Đây là những vấn đề mới, cần được nghiên cứu, hoàn thiện nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới.
Cùng với việc sửa đổi, bổ sung một số luật, pháp lệnh về quốc phòng, trong nhiệm kỳ này và đầu nhiệm kỳ tới, Quốc hội nên xem xét, ban hành một số đạo luật mà nội dung đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII như: Luật Về tình trạng khẩn cấp; Luật Công nghiệp quốc phòng-an ninh; Luật Về kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế; Luật Phòng thủ dân sự; luật hoặc nghị quyết của Quốc hội về tham gia lực lượng Gìn giữ hòa bình thế giới…
Việc ban hành Luật Về tình trạng khẩn cấp sẽ điều chỉnh việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong tình huống đặc biệt, bởi vậy, nó cần được tiến hành xây dựng khẩn trương, để sớm bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tình huống này, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà các quyền tự do, dân chủ của công dân ngày càng được mở rộng, các thế lực thù địch lại đang ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” , thúc đẩy “chủ nghĩa dân túy” để chống phá ta.
Luật Công nghiệp quốc phòng-an ninh tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng-an ninh theo đúng quan điểm của Đảng được nêu trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011).
Luật Về kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế nhằm kết thừa và phát huy quốc sách “ngụ binh ư nông” trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương, nguyên tắc hiến định về kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.
Việc ban hành Luật Phòng thủ dân sự là cần thiết, vì phòng thủ dân sự là nội dung chủ yếu, quan trọng của xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng là nguyện vọng, đòi hỏi, mong muốn của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và nhân dân.
Nhiều chuyên gia pháp luật và đại biểu Quốc hội cho rằng, đã đến lúc Việt Nam cần có một bộ luật về quốc phòng, trong đó quy định các vấn đề về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, dân quân tự vệ… tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ và chặt chẽ về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và bảo vệ nhân dân.
ĐỖ PHÚ THỌ