Thứ nhất, sớm nhận diện và kiên quyết khắc phục tư duy nhiệm kỳ và lợi ích nhóm, coi trọng cuộc đấu tranh không khoan nhượng với tệ nạn tham nhũng.
Chống tư duy nhiệm kỳ gắn với lợi ích nhóm và căn bệnh thành tích ở nước ta thực chất chính là chống một hình thức tham nhũng tập thể, một sự lãng phí lớn, được biểu hiện dưới nhiều dạng vẻ và quy mô, cấp độ hết sức đa dạng.
Đoàn công tác Trung ương đoàn, Tỉnh đoàn Hà Tĩnh trao đổi với anh Trần Văn Tuấn (Hợp tác xã khai thác, đánh bắt, thu mua và chế biến thủy hải sản Tuấn Nga). Nguồn: qdnd.vn.
Xóa bỏ tư duy nhiệm kỳ, bệnh thành tích và lợi ích nhóm, cũng như tham nhũng, lãng phí đều phải rất coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhưng quan trọng không kém nữa là Đảng và Nhà nước phải đề ra được những cơ chế, chính sách phù hợp, “bịt” được những kẽ hở không để “lợi ích nhóm” có đất để nảy nở, sinh sôi. Phải có cơ chế để khống chế quyền lực. Mà cơ chế để khống chế quyền lực có hiệu quả nhất là thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch để người dân có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền, giám sát đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Điều kiện quan trọng để hạn chế căn bệnh thành tích và tư duy nhiệm kỳ là sớm xây dựng những giá trị chuẩn chung, những cơ chế hữu hiệu bảo vệ lợi ích quốc gia, tạo sự đồng thuận lý tưởng chung cho xã hội; khắc phục những ngộ nhận về công cụ với mục tiêu, những bất cập và lạm dụng về khái niệm, nội hàm mô hình tăng trưởng; sự lẫn lộn, mù mờ giữa địa giới hành chính chủ quan và không gian, cơ cấu kinh tế khách quan. Đồng thời, cần vận hành hiệu quả Luật Đầu tư công và làm rõ quyền tự chủ địa phương với yêu cầu quản lý nhà nước tập trung, thống nhất (đặc biệt là trong quy hoạch tổng thể chung và quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc thị trường); phân biệt rạch ròi giữa mục tiêu vì lợi nhuận với mục tiêu phi lợi nhuận, nhiệm vụ chính trị với nhiệm vụ kinh doanh của các hoạt động đầu tư công; cũng như quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh; khắc phục và sự thiếu minh bạch trong chính sách, thông tin và cả trong hệ tiêu chí đánh giá, đo lường chất lượng, hiệu quả đầu tư; tăng yêu cầu giải trình, sự phản biện và giám sát xã hội; giảm thiểu căn bệnh sính thành tích, coi trọng hình thức trong hoạt động của các đoàn thể, cũng như quản lý nhà nước các cấp.
Dân chủ hóa đời sống kinh tế-xã hội phải được tăng cường, đi đôi với xây dựng một Nhà nước pháp quyền mạnh. Pháp luật là tối cao, rõ ràng, đồng bộ và nhất quán, đồng thời mang tính hiện đại, theo kịp trình độ phát triển luật pháp, thông lệ quốc tế. Các thủ tục hành chính phải đơn giản hóa, công khai, công bằng, thống nhất, nhanh chóng và trực tiếp. Việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn trong hệ thống cơ quan hành chính phải gắn liền với tăng cường trách nhiệm trực tiếp và cuối cùng. Bảo đảm mọi tài sản xã hội, mọi luật định, mọi công việc Nhà nước đều có người chịu trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm hình sự cụ thể, rõ ràng.
Thứ hai, về dài hạn, cần chuyển từ mô hình “Nhà nước-nhà đầu tư lớn nhất” và phát triển chủ yếu theo bề rộng hiện nay, sang mô hình “Nhà nước-nhà quản lý công” và phát triển theo bề sâu, đi đôi với việc chuyển nguồn động lực chính trong đầu tư phát triển kinh tế từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài nhà nước, phù hợp tinh thần cốt lõi của công cuộc đổi mới và theo xu hướng chung trên thế giới; sớm thiết lập cơ chế thị trường cạnh tranh đầy đủ và nâng cao năng lực giám sát, kiểm soát và xử lý sự độc quyền và các vi phạm về giá từ phía các doanh nghiệp, các bên có liên quan. Các giải pháp và công cụ chính sách cần có trọng tâm, trọng điểm, cụ thể hóa chủ trương và cơ chế tổ chức thực hiện trong thực tiễn; đồng thời, cần có sự đồng bộ, nhất quán giữa việc ban hành, triển khai, giám sát, kiểm tra và chế tài hiệu quả các vi phạm chính sách trên thực tế...
Đặc biệt, cần sửa đổi cơ chế phân cấp ngân sách, phân cấp đầu tư, tăng cường hơn vai trò tổng cân đối chung trên tầm quốc gia của Chính phủ. Coi trọng vai trò quyết sách cân đối tập trung của Nhà nước và sự phân cấp cho từng địa phương chỉ được tiến hành trên cân đối tổng thể chung, mà không phải là hình thức khoán chi. Đó cũng là cơ sở đổi mới chức năng của đầu tư công, với một số lĩnh vực có thể dành cơ hội cho cả khu vực tư nhân cùng tham gia kinh doanh phục vụ và kiếm lời, trong khi đầu tư công chuyển sang nhiều hơn cho phúc lợi chung. Tăng cường vai trò cân đối theo vùng lãnh thổ, nhất là các dự án dành cho phúc lợi công cộng như: Y tế, giáo dục, môi trường. Đổi mới doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nhất là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. Kiên quyết thực hiện việc sắp xếp và cổ phần hóa DNNN đã được xác định trong các nghị quyết.
Kiểm soát chặt việc tự vay, tự trả của các DNNN, các địa phương, và cả khu vực tư nhân liên kết với các DNNN hay bảo lãnh của Nhà nước. Công khai minh bạch đầu tư công và các số liệu của các DNNN để có giám sát từ cộng đồng, cùng phối hợp với giám sát của cơ quan nhà nước. Cần công khai việc công bố các dự thảo và văn bản chính thức luật lệ, quy định có liên quan đến người dân, để có thể đóng góp, hiểu rõ và thi hành đúng. Cần thi hành hệ thống thông tin điện tử thống nhất, dễ tra cứu về các thu chi liên quan thu chi ngân sách và đầu tư công trên mạng để có thể theo dõi, giám sát. Tăng cường sự giám sát của cộng đồng, xem đó là thủ tục bắt buộc, đưa thành cơ chế để có nhiệm vụ về tư vấn, phản biện, giám định xã hội trong quá trình đầu tư công. Từng bước minh bạch hóa đầu tư công trên mọi bình diện, với sự tham gia của đội ngũ các nhà chuyên môn cả nước. Xóa bỏ cơ chế xin-cho, tạo cơ chế có khoản chi bắt buộc trong chuẩn bị đầu tư để trả tiền cho công tác tư vấn, đi cùng với quy định trách nhiệm đến cùng. Có chi phí được xác định sẵn để thực hiện việc phản biện và cơ chế cùng chịu trách nhiệm, mà không phải chỉ dựa vào ý chí của lãnh đạo.
Thứ ba, nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự báo, phản biện và chủ động các phương án, giải pháp phòng ngừa lạm dụng, tội phạm.
Cần coi trọng đúng mức và phân biệt rạch ròi giữa yêu cầu dự báo khách quan với mục tiêu chính sách và ý chí chủ quan. Dự báo cần bám sát, cập nhật và đưa ra các cảnh báo cần thiết về các biến động thị trường khách quan trong nước, quốc tế. Đồng thời, cần coi trọng dự báo tác động hai mặt của chính sách theo yêu cầu quản lý kinh tế thị trường. Việc dự báo, đánh giá tác động hai mặt tích cực, tiêu cực cả về xu hướng định tính, lẫn về định lượng của việc áp dụng các chính sách và định mức cụ thể trong quá trình điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước là rất quan trọng, nhất là với những mặt hàng đầu vào nhạy cảm của đời sống kinh tế-xã hội đất nước.
Việc coi nhẹ các phản biện xã hội và các đánh giá tác động chính sách (định kỳ hoặc đột xuất) trước và sau khi ban hành do các tổ chức chuyên nghiệp và độc lập thực hiện theo đặt hàng của cấp có thẩm quyền khách quan cũng là một bất cập khác trong quy trình lập pháp nói chung, trong công tác dự báo kinh tế nói riêng ở nước ta.
Chưa bao giờ yếu tố thông tin và lòng tin, nhất là trong khu vực kinh tế tư nhân và thị trường tài chính, lại có vai trò nhạy cảm, quan trọng như hiện nay, cả trong phát triển, quản lý kinh tế. Trên cấp độ quốc gia, khi tình trạng các thông tin bất đối xứng, bị hạn chế, chậm trễ, thiếu thốn và thiếu chính xác càng nặng nề và phổ biến, thì căn bệnh thành tích và tư duy nhiệm kỳ càng trầm trọng, kéo dài. Vì vậy, cần tăng cường và thể chế hóa các phát ngôn, cung cấp thông tin chính thức có chất lượng và trách nhiệm pháp lý cao định kỳ, không định kỳ của các cơ quan, đại diện Nhà nước, các tổ chức kinh doanh có liên quan; giảm thiểu và khắc phục các biểu hiện, lạm dụng công cụ quản lý hành chính, mệnh lệnh và hiện tượng “vận động hành lang”, “chạy chính sách” vì lợi ích nhóm, ngành độc quyền, bất chấp lợi ích và uy tín quốc gia… Bảo đảm các biến động chính sách phải tường minh và có thể dự báo được trong xu hướng ổn định, nhất quán, phù hợp các nguyên tắc kinh tế thị trường và yêu cầu cam kết hội nhập, các thông lệ thế giới, cũng như các tín hiệu thị trường khách quan.
Thứ tư, cần đổi mới công tác cán bộ theo hướng đề cao quy chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa và trách nhiệm cá nhân, người đứng đầu; khắc phục tình trạng bổ nhiệm đúng quy trình hình thức, nhưng không bảo đảm chất lượng cán bộ; coi trọng phát hiện, đào tạo, sử dụng và tôn vinh người tài, đủ tâm và đủ tầm gánh vác trọng trách; kiên quyết chống những biểu hiện tham nhũng trong công tác cán bộ, cũng như thường xuyên phát hiện, xử lý, loại bỏ kịp thời những cán bộ tham nhũng, suy thoái đạo đức, vô trách nhiệm, mất uy tín và trở thành lực cản phát triển.
Phải coi trọng việc phát hiện, lựa chọn và sử dụng đúng những nhân tài là người đứng đầu, nếu chọn sai vị trí này thì cả đội ngũ sẽ kém hiệu lực và phát sinh nguy cơ hạ thấp dần trình độ cán bộ, công chức Nhà nước; cần tái lựa chọn liên tục, lấy hiệu quả công việc làm cơ sở đánh giá và lựa chọn chứ không phải bằng cấp, học vị, chức tước.
Thứ năm, chủ động và không ngừng hoàn thiện cơ sở lý luận đường lối, pháp luật, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và đề án xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội theo yêu cầu phát triển bền vững.
Cần đổi mới căn bản hệ thống chỉ tiêu, định mức, chế độ chi tiêu quản lý tài chính Nhà nước theo hướng dài hạn, hướng đến kết quả đầu ra, tăng cường phân cấp, đề cao trách nhiệm và tự chủ của đơn vị, cá nhân liên quan (với những chế tài vật chất và hành chính đủ sức mạnh răn đe đi kèm), chống tình trạng áp dụng bình quân, đại trà, máy móc gây khó khăn cho đơn vị, cơ sở và ngay cả cơ quan quản lý cấp trên hoặc làm tăng tình trạng nói dối, biến báo “hợp lý hóa”, kẽ hở cho phát sinh tham nhũng, thất thoát và sử dụng ngân sách nhà nước kém hiệu quả…
Việc kéo dài quá lâu một nhận thức, quy hoạch, chính sách đã lỗi thời, bất cập sẽ gây ra những tác hại khôn lường cho thực tiễn phát triển kinh tế cả cấp quốc gia, cũng như địa phương, doanh nghiệp.
Thứ sáu, đẩy mạnh tái cấu trúc, đa dạng hóa, bình đẳng hóa và phát triển, quản lý sự hợp tác, gắn kết kinh tế giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế.
Các nhận thức, quy định pháp lý và thái độ, hành vi biểu hiện sự phân biệt đối xử, cũng như việc thiếu hợp tác, gắn kết kinh tế giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế dù bất kỳ dưới hình thức và mức độ nào, ít nhiều đều tỏ ra bất cập, trực tiếp, gián tiếp cản trở sự đồng thuận xã hội, nhiệt tình đầu tư và cả hiệu quả đầu tư, cũng như sức cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp. Hơn nữa, điều đó còn tạo kẽ hở, điều kiện làm phát sinh tình trạng tham nhũng, tiêu cực. Vì vậy, một mặt, cần bảo đảm sự bình đẳng và cơ chế thị trường giữa các doanh nghiệp kinh doanh vị lợi nhuận. Mặt khác, cần khuyến khích, hỗ trợ và quản lý hiệu quả sự hợp tác, gắn kết kinh tế sâu, rộng, toàn diện, lành mạnh dưới nhiều hình thức đa dạng giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế.
Nhà nước thông qua khu vực kinh tế Nhà nước, cần tạo điều kiện và có vai trò chủ động, tích cực hơn để thúc đẩy sự gắn kết, hợp tác, liên doanh liên kết trong hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các thành phần kinh tế. Cần mạnh dạn lấy một số DNNN lớn, có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư tư nhân để tiến hành cổ phần hóa thành công ty, tập đoàn kinh tế có sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, hình thành doanh nghiệp đa sở hữu quy mô lớn và một số tập đoàn kinh doanh mạnh các nhà đầu tư nước ngoài, đầu tư tư nhân trong nước cần được phép đầu tư không hạn chế quy mô vào các công ty cổ phần Nhà nước khác...
Thứ bảy, coi trọng các nhân tố chất lượng và yêu cầu phát triển bền vững.
Cần đa dạng hóa các phương thức huy động và đầu tư (BOT, BT, PPP...); tích cực thu hồi, “bóc tách” và thương mại hóa những tài sản đất đai và bất động sản cùng các tài nguyên công cộng khác trên địa bàn bị chiếm hữu trái phép, sử dụng sai mục đích, quá tiêu chuẩn hoặc không hiệu quả… để đưa vào thị trường vốn. Toàn bộ quá trình tái cơ cấu kinh tế cần hướng đến một cơ cấu kinh tế hiện đại và hiệu quả, vì con người và phát triển tương lai bền vững.
Quá trình phát triển và quản lý phát triển kinh tế Việt Nam được hỗ trợ bởi sự quyết tâm chính trị và đồng thuận xã hội cao, bởi các tiềm năng và điều kiện trong nước, cũng như xu thế và cơ hội từ bên ngoài. Đồng thời, quá trình này cũng gặp không ít khó khăn, trong đó có cả lực cản từ các căn bệnh thành tích và lối tư duy nhiệm kỳ; kể cả sự lạm dụng, thất thoát và tham nhũng từ những dự án đầu tư mới nhân danh tái cấu trúc, nhất là khu vực đầu tư công. Những khó khăn và lực cản trên đây nếu không được nhận diện và hóa giải tốt, có thể gây hệ quả trái mong đợi và làm nản lòng những quyết tâm tái cơ cấu kinh tế.
Quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” là nhiệm vụ trọng tâm và điều kiện cần thiết để nhận diện và giảm thiểu căn bệnh thành tích và lối tư duy nhiệm kỳ, lợi ích nhóm trong phát triển và tái cơ cấu kinh tế trong thời gian tới, nhằm củng cố chế độ, giữ vững, nâng cao hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, vì một Tổ quốc Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Đó là ý Đảng và đó cũng là đòi hỏi của lòng dân!
TS NGUYỄN MINH PHONG