Bài 1: Một số biểu hiện, hệ quả của bệnh thành tích và tư duy nhiệm kỳ
Tư duy nhiệm kỳ là lối suy nghĩ và cách thức hành xử công việc của một bộ phận cá nhân có quyền lực trong khoảng thời gian nhất định, thường theo nhiệm kỳ bầu cử, đại hội… muốn thu lợi cao nhất cho mình và nhóm lợi ích của mình trong thời gian tại vị; coi nhẹ, thậm chí không tính đến lợi ích chung hay lợi ích dài hạn của tập thể, địa phương, quốc gia.
Bệnh thành tích và tư duy nhiệm kỳ là cặp bài trùng, gắn bó với nhau như hình với bóng, là biểu hiện tập trung của sự lệch lạc và suy thoái nhận thức về lý tưởng, trách nhiệm xã hội, đạo đức, cũng như năng lực của một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ đã, đang và sẽ tiếp tục tham gia bộ máy lãnh đạo các cấp, ngành của Đảng, Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội Việt Nam.
Làm tổn thất nguồn lực, méo mó nền kinh tế
Những biểu hiện của tư duy nhiệm kỳ cũng như bệnh thành tích là hết sức đa dạng, “muôn hình vạn trạng”, biến màu linh hoạt và ngày càng phủ rộng, cũng như len sâu khắp các lĩnh vực, địa phương, quy mô và các cấp độ quản lý Nhà nước và hoạt động kinh tế. Tuy vậy, chúng đều có chung một đặc trưng nguy hiểm là thường khai thác, lạm dụng các kẽ hở và ẩn mình trong vỏ bọc pháp luật; đồng thời, ngày càng hành động có tổ chức và luôn nhân danh cái tốt đẹp, lợi ích chung, quốc gia, cộng đồng tập thể, để cốt chỉ thu vén lợi ích cho cá nhân, gia đình, nhóm cánh hẩu của mình, hoặc nhiệm kỳ mình càng nhiều càng tốt mà thôi…
Trong thực tế, chúng gây nên hậu quả hết sức nặng nề, khiến không chỉ làm tổn thất các nguồn lực quý giá, mà còn làm bức tranh kinh tế bị méo mó do bị tô hồng, nhiều quyết sách không chuẩn xác, làm giảm năng lực, hiệu lực và hiệu quả. Nhiều chính sách sai lầm, thậm chí đã bị phá sản, nhưng vẫn được báo cáo là đúng hướng, là đang phát huy hiệu quả, nên không được điều chỉnh kịp thời gây mất mát, thua lỗ hàng chục, hàng trăm nghìn tỷ đồng vốn và tài sản Nhà nước. Hơn nữa, chúng còn làm mất uy tín Nhà nước, làm giảm sức cạnh tranh và hiệu quả các thể chế quốc gia; thậm chí đe dọa sự ổn định kinh tế vĩ mô chung và an toàn của chế độ xã hội.
Trong quản lý đầu tư công và công tác quy hoạch, bệnh thành tích và lối tư duy nhiệm kỳ khá phổ biến trong bức tranh đầu tư công, công tác quy hoạch ở Việt Nam, với những biểu hiện đậm nét là cảnh nhiều cấp bộ, ngành, địa phương, đơn vị và cá nhân “làm láo báo cáo hay”, “con gà tức nhau tiếng gáy”, tham gia cuộc đua lập dự án và quy hoạch “khủng” các loại, bất chấp sự chồng chéo, cơ sở thực tế, hiệu quả, hiệu năng, kỷ luật đầu tư công, dẫn tới tình trạng đầu tư dàn trải, sự gia tăng mất cân đối vốn đầu tư công và nợ đọng xây dựng cơ bản, chất lượng dự án thấp và các hành vi tham nhũng hoặc trục lợi... Căn bệnh sính thành tích, nghiện đầu tư, thèm dự án, đói tài nguyên đã ăn sâu vào cơ cấu bên trong và kết nối chặt chẽ các nhóm lợi ích, từ đó dẫn tới hệ lụy về việc sử dụng kém hiệu quả nguồn lực quốc gia và nền kinh tế lâm vào tình trạng thiếu minh bạch.
Điểm lại từ ngày triển khai công cuộc đổi mới tới nay, nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều đợt đầu tư "theo phong trào”, nhiều "hội chứng đầu tư” đã xuất hiện. Nào là đua nhau đầu tư xây dựng nhà máy bia, thuốc lá, tiếp đến là xi măng lò đứng, mía đường, lắp ráp xe máy, sản xuất bột sắn, đánh bắt xa bờ, xây dựng cảng biển, khu công nghiệp và khu kinh tế, kể cả kinh tế cửa khẩu. Kế đến là bột giấy, cán thép, thủy điện nhỏ và vừa, khu nghỉ dưỡng, khu đô thị, tận thu khoáng sản, trường đại học, sân golf, rồi sân bay... Trong số các dự án đó, có phần do doanh nghiệp đầu tư, nhưng một phần không nhỏ bắt nguồn từ đầu tư công của Trung ương và địa phương lẫn doanh nghiệp Nhà nước. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để "tiêu thụ" hết số dự án đã được thông qua, mỗi năm cần một số tiền lớn hơn tổng mức đầu tư toàn xã hội. Có quá nhiều dự án được phê duyệt chỉ cho có, không tiến hành thực hiện.
Đặc biệt, lối tư duy nhiệm kỳ là cội nguồn trực tiếp của hiện tượng sản xuất hàng loạt quy hoạch, chiến lược phát triển được xây dựng thần tốc, thẩm định cẩu thả, với hàng loạt các dự án dưới chuẩn, quy hoạch treo, cùng loại, cùng kiểu ở mọi địa phương, bất chấp các căn cứ khoa học, khả năng đầu tư thực tế và hiệu quả kinh tế-kỹ thuật. Lãnh đạo địa phương chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng bề rộng, "vẽ" ra các dự án để đánh bóng tên tuổi tỉnh mình; dự án càng được "vẽ" to bao nhiêu chứng tỏ độ hoành tráng và được rót tiền ngân sách càng lớn bấy nhiêu và lợi ích nhóm cũng vì thế mà tăng theo… Cũng cần nhấn mạnh rằng, lỗi của đầu tư dàn trải không chỉ do lỗi của người xin-địa phương, mà còn có lỗi của cả người cho-Trung ương. Dù địa phương "vẽ" ra các dự án hoành tráng, nhưng nếu không được cấp trên duyệt thì làm sao vốn được rót ra để triển khai xây dựng? Nếu cấp Trung ương quản lý chặt thì đã không để lọt lưới quá nhiều dự án không hiệu quả…
Theo kế hoạch, đến năm 2020, cả nước sẽ có 19.285 quy hoạch được lập (trong đó, quy hoạch của xây dựng và đô thị chiếm 63%, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội chiếm 22%, quy hoạch sử dụng đất chiếm 15%) và đòi hỏi số vốn đầu tư cả triệu tỷ đồng. Những quy hoạch này có vai trò quan trọng trong định hướng, dẫn dắt và tạo kết nối thúc đẩy đầu tư xã hội, thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế, cơ sở hạ tầng và hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa khác. Quy hoạch tốt sẽ tạo hiệu quả cao. Ngược lại, nếu quy hoạch được làm đại khái, dễ dãi, bị chi phối bởi lối tư duy nhiệm kỳ, lợi ích nhóm và cả tính “lãng mạn” được núp danh “tầm nhìn xa” thì sẽ tạo ra “cuộc đua quy hoạch” thiếu cơ sở khoa học, sự đồng bộ, thống nhất và sự phối hợp liên ngành, không gắn với nguồn lực và phi thực tế… Lỗ hổng từ chất lượng quy hoạch, thiết kế dự án sẽ gây lãng phí và thất thoát vốn đầu tư, rối loạn cơ cấu kinh tế ngành và lãnh thổ, làm tăng mức đội vốn, làm mất cân đối ngân sách Nhà nước, tăng nợ công, giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư và năng suất lao động xã hội, cũng như làm ứ đọng các nguồn lực đất đai, lao động, làm tăng áp lực bảo đảm an sinh xã hội, tăng rủi ro mất việc làm và thu nhập của người dân…
Nguyên nhân của tình trạng trên không chỉ do thiếu Luật Quy hoạch như là nền tảng pháp lý chung quan trọng nhất cho công tác xây dựng quy hoạch, mà còn do sự lẫn lộn về khái niệm giữa địa giới hành chính và không gian kinh tế, mỗi tỉnh đều muốn trở thành một thực thể kinh tế hoàn chỉnh nông-công nghiệp-dịch vụ đều có, kèm theo là trường đại học, bến cảng, sân bay, khu kinh tế... mặc dầu không hội đủ điều kiện; cũng như do tâm lý muốn phát triển nhanh, muốn công nghiệp hóa bằng mọi giá để có thành tích nổi trội trong nhiệm kỳ; do cơ chế phân bổ nguồn vốn theo kiểu cào bằng và xin-cho, kể cả do tính toán theo lợi ích ngành và địa phương, thậm chí cá nhân... Bên cạnh đó, cách đánh giá thành tích tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh, thành phố; cơ chế đánh giá và xét lọc các dự án, phân cấp quyền, trách nhiệm trong việc cấp phép đầu tư, phân bổ vốn đầu tư từ Trung ương còn nhiều bất cập đã thúc đẩy cuộc chạy đua về dự án, công trình, coi trọng quy mô và cái lợi trước mắt, bất chấp chất lượng, tiến độ và tình trạng đầu tư công dàn trải.
Dễ dẫn tới hành vi tham nhũng, gây mất niềm tin
Mối quan hệ chiều ngang chồng chéo giữa ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước và các cơ quan chủ quản, cùng với sự phân cấp chiều dọc giữa địa phương và Trung ương trong việc thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ về ngân sách vẫn còn nhiều bất cập. Mô hình phân cấp đầu tư của nước ta từ năm 2006 đến nay có tính "phân cấp trắng", tách rời việc cân đối giữa nhu cầu và khả năng cung ứng. Các ngành và địa phương lập dự án đầu tư, còn nguồn vốn là xin từ ngân sách Trung ương. Do đó, nhiều trường hợp các doanh nghiệp nhà nước và các tỉnh, Trung ương sẽ liên kết giành lấy những dự án béo bở và củng cố ảnh hưởng lẫn nhau, với mục đích đôi bên cùng có lợi. Trong mối quan hệ này đã thiếu đi một cơ quan đủ tầm để kiểm soát tính hiệu quả của các dự án và lưu thông dòng vốn. Khi địa phương nào cũng thấy đặc thù của mình là có một không hai, có khả năng tạo thành lợi thế cạnh tranh để đưa tỉnh nhà cất cánh, cộng với sự liên kết không chặt chẽ ở hàng ngang giữa các bộ chủ quản, ngân hàng và các doanh nghiệp nhà nước, thì đánh giá hay thẩm định dự án sẽ mang tính cục bộ hoặc "người nhà xem xét với nhau". Bởi vậy, 63 vùng kinh tế không mang tính liên kết đồng bộ tương ứng với 63 tỉnh, thành phố, cùng với hàng loạt dự án chậm trễ, thất thoát, lãng phí trong những năm vừa qua là những hệ quả trực tiếp từ sự bất đồng bộ của cơ chế này.
Thực tế cho thấy, cơ chế tập trung hóa, quan liêu bao cấp vẫn còn hiện diện và tạo áp lực, cơ hội cho sự tồn tại tư duy nhiệm kỳ. Mỗi nhà lãnh đạo địa phương khi mới lên chức đều phải cố gắng đi xin cái gì đó để có được dấu ấn nào đó trong nhiệm kỳ của mình... Thành tích, vị trí của địa phương lại tính theo tốc độ tăng trưởng GRDP hằng năm, nên trong nhiệm kỳ của mình, các nhà lãnh đạo tỉnh, thành phố đều phải thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế-xã hội đặt ra, vì nếu không thì e là bị mời nhường ghế cho người khác.
Xét trên tổng thể nền kinh tế, những công trình đầu tư công bất chấp hiệu quả kinh tế sẽ làm cho nguồn lực quốc gia suy kiệt, ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển của cả nước nói chung, đó là chưa kể tới những tác hại về môi trường, lòng tin của người dân. Công nghiệp hóa đất nước không có nghĩa là tỉnh nào, huyện nào cũng công nghiệp hóa nhất loạt như nhau, mà cần có sự phân công lao động hợp lý, phù hợp với lợi thế của từng vùng, tránh làm cho nguồn lực bị phân tán, chồng chéo, hiệu quả thấp, làm suy yếu nền kinh tế nước nhà.
Quản lý của Nhà nước về đất đai trong giai đoạn vừa qua có nhiều điểm bất cập, tạo kẽ hở cho sự hoành hành của các nhóm lợi ích và lối tư duy nhiệm kỳ, cũng như tình trạng sử dụng quỹ đất nông nghiệp lãng phí. Giá đất thu hồi quá thấp và chính sách 2 giá đã tạo chênh lệch giá rất cao của các dự án bất động sản, khiến đầu cơ bất động sản và cuộc chạy đua dự án bất động sản bùng nổ, cùng với sự lạm dụng quyền hành, làm giàu trên lưng của cả người nông dân, những người mua nhà và tạo bong bóng bất động sản, tình trạng nợ xấu, nợ đọng trên thị trường này.
Đó là hiện tượng giao đất không đúng đối tượng; chuyển đổi mục đích sử dụng đất và đền bù đất dự án tùy tiện, luồn lách hoặc bất chấp pháp luật; rút lõi và khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản ngày càng gia tăng như quốc nạn mới khó cản. Thậm chí, đó là sự biến mất trước mắt cơ quan kiểm lâm cả cánh rừng mà họ có trách nhiệm bảo vệ và hàng ngàn héc-ta đất nông nghiệp, lâm nghiệp cho những dự án phát triển công nghiệp trên giấy hay dịch vụ giải trí cao cấp phục vụ thiểu số, nhân danh mục tiêu tái cơ cấu và bất chấp lợi ích lâu dài của địa phương, quốc gia…
Việt Nam là một trong những nước giàu tài nguyên khoáng sản. Hiện có hơn 5.000 mỏ đang khai thác với khoảng 60 loại khoáng sản thuộc nhiều nhóm khác nhau. Khoáng sản là 1 trong 4 lĩnh vực tham nhũng tinh vi nhất. Việc khai thác các khoáng sản dễ bị ảnh hưởng của lợi ích nhóm và tư duy nhiệm kỳ, gây lãng phí nguồn tài nguyên quốc gia. Một ví dụ tiêu biểu được đưa ra về bệnh thành tích và lối tư duy nhiệm kỳ là địa phương thường chỉ nhấn mạnh một chiều cái được mà ỉm đi cái mất, chẳng hạn là chuyện địa phương khoe một doanh nghiệp khoáng sản nộp ngân sách 5 tỷ đồng, nhưng không báo cáo là đoạn đường mà doanh nghiệp này làm hỏng trị giá đến 30 tỷ đồng. Trong không ít trường hợp, doanh nghiệp khai thác khoáng sản hưởng mọi lợi nhuận, còn người dân địa phương vẫn nghèo như xưa, nếu không nói là tệ hơn xưa do cuộc sống và truyền thống bị xáo trộn.
Trong công tác cán bộ, bệnh thành tích và tư duy nhiệm kỳ thể hiện đậm nét ở cuộc đua báo cáo thành tích cá nhân rất "kêu", bất chấp sự thực hoạt động của đơn vị và người đó trong thực tế. Những báo cáo này trực tiếp phục vụ cuộc đánh bóng hình ảnh cá nhân gắn với hiện tượng chạy ghế, chạy chức và chạy quy hoạch nhân sự, gắn với nhiệm kỳ của các vị trí quản lý kinh tế. Giá và độ nóng các ghế này tùy thuộc độ màu mỡ và khả năng thu hồi vốn của các chúng, cũng như tùy vào quan hệ các bên có liên quan; đồng thời, do đó, hậu quả xấu của những cán bộ loại này cũng tùy thuộc chi phí và tham vọng thu lời từ vị trí họ được bổ nhiệm…
Sự cố kết của các nhóm lợi ích với các nhà hoạch định chính sách theo tư duy nhiệm kỳ dễ dẫn tới những hành vi tham nhũng hoặc trục lợi, vun vén cá nhân. Đó là những biểu hiện tha hóa trong sử dụng quyền lực Nhà nước, quyền lực chính trị ở các cấp, lĩnh vực, vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật, ăn bám trong quá trình phát triển và tái cơ cấu kinh tế, phá vỡ trật tự, kỷ cương, làm băng hoại các giá trị truyền thống trong các quan hệ cộng đồng và quan hệ trong xã hội công dân. Chúng tạo ra hiện tượng chạy chính sách, chạy dự án, chạy vốn, chạy chức, chạy quyền, chạy thành tích và cả chạy tội, chạy án…; làm sai lệch các tín hiệu thị trường, cơ cấu và định hướng các nguồn lực quốc gia, làm tăng nợ công và sự bất ổn vĩ mô; làm tăng nguy cơ lỏng lẻo và mất kiểm soát pháp luật Nhà nước, giảm sút hiệu quả đầu tư các cấp độ và quy mô; làm mất cơ hội, sức cạnh tranh kinh doanh; tạo những cơn nóng-lạnh bất thường "nặng mùi" đầu cơ và những rủi ro chính sách đủ loại trong đời sống kinh tế vĩ mô và vi mô; làm tổn thương những giá trị chân-thiện-mỹ, làm tha hóa đạo đức xã hội; gây tổn hại đến lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, uy tín, năng lực và hiệu quả quản lý Nhà nước, thậm chí đe dọa cả sự tồn vong của quốc gia…
(Còn nữa)
TS NGUYỄN MINH PHONG