Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã xác định: con đường cách mạng là sử dụng bạo lực cách mạng. Cùng với đấu tranh chính trị, phải tổ chức vũ trang toàn dân, thành lập các đội vũ trang để đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Và nhân dân chính là nguồn bảo đảm hậu cần cho các đội vũ trang.

Trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930), các Đội Tự vệ Đỏ (tự vệ công nông) được thành lập để bảo vệ chính quyền cách mạng; đội viên tự túc về ăn, mặc, thuốc men; được trang bị vũ khí thô sơ (giáo, mác, cung, nỏ, gậy gộc...). Tiền mua sắm vũ khí chủ yếu do nhân dân quyên góp, ủng hộ. Đại hội lần thứ Nhất của Đảng (tháng 3/1935) quyết nghị thành lập “Công nông tự vệ” và chủ trương: Ngoài vận động các đội viên tự mua sắm trang bị vũ khí, còn phát động nhân dân ủng hộ, mua sắm vũ khí phương tiện và tìm cách lấy vũ khí giặc trang bị cho mình.

Tháng 9/1940, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, Đội du kích Bắc Sơn được thành lập, quân số trên 200 người, trang bị phần lớn là súng kíp, có một số súng trường và cung nỏ do đội viên tự mua sắm. Các đội viên du kích được nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng. Để chống lại sự kiểm soát gắt gao của địch, đồng bào thường lợi dụng lúc đi làm nương, lấy củi, lấy nước để tiếp tế cho Đội. Họ may các túi nhỏ, cho gạo, muối vào và quấn quanh người, mặc áo ra ngoài hoặc cho gạo xuống đáy sọt, chậu rồi phủ lá cây lên trên...mang vào rừng tiếp tế cho các đội du kích và cứu quốc quân. Nhân dân vùng Võ Nhai, Bắc Sơn còn tiếp tế bằng cách để lại một phần lúa, ngô, khoai, sắn ở trên nương hoặc để sót lại một ít thóc ở các lùm rơm rạ, lòng đập, đêm đến theo quy ước các chiến sỹ du kích và cứu quốc quân đến tìm lấy. Mặc dù địch càn quét, “khủng bố trắng”, nhưng phong trào cách mạng và đội du kích vẫn được duy trì.

Ở Nam Bộ, từ giữa năm 1940, công tác chuẩn bị cho khởi nghĩa Nam Kỳ được xúc tiến khẩn trương với việc thành lập các ban tài chính, tiếp tế, cứu thương để tổ chức quyên góp tiền, vận động nhân dân mua giúp thuốc chữa bệnh, mua nguyên vật liệu, hoá chất chế tạo vũ khí. Ngày 23/11/1940, khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra và nhanh chóng lan rộng tới 18/20 tỉnh, nhiều đội du kích được thành lập và được nhân dân nuôi dưỡng. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 về chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Đội du kích Bắc Sơn đổi tên là Cứu quốc quân, phong trào du kích được đẩy mạnh. Ngày 15/9/1941, đội Cứu quốc quân 2 được thành lập. Trung ương Đảng chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích; vùng căn cứ Cao-Bắc-Lạng-Hà-Tuyên-Thái được xây dựng, nhiều xã, châu “hoàn toàn Việt Minh” xuất hiện. Âm mưu “Tát nước, bắt cá” của địch bị thất bại.

Cuối năm 1941, Đội vũ trang Cao Bằng thành lập để bảo vệ các cơ quan lãnh đạo, làm nhiệm vụ giao thông liên lạc, giác ngộ quần chúng. Các đội viên tự tìm vũ khí trang bị. Hưởng ứng lời kêu gọi của Tỉnh uỷ Cao Bằng, nhân dân đã tích cực quyên góp thóc gạo, tiền bạc, vũ khí, lập kho thóc ủng hộ các đội vũ trang. Mỗi gia đình ở huyện Hoà An ủng hộ 01 gánh thóc (khoảng 30 kg), cả huyện huy động được hàng chục tấn thóc. Huyện Nguyên Bình thực hiện mỗi gia đình có 3 chum ngô dự trữ, trong đó có 1 chum ngô rang dành làm “lương khô” cho chiến sỹ tự vệ. Một số kho bí mật (mỗi kho chứa 2-3 tấn lương thực) được xây dựng ở Lũng Lừa, Lũng Táo, Đề Cao, Lũng Lô. Có gia đình bán cả trâu, bò, ruộng, vườn lấy tiền ủng hộ cứu quốc quân mua sắm vũ khí. Ở tổng Hoàng Diệu, mỗi gia đình ủng hộ 12 đồng để mua vũ khí cho tự vệ. Tại huyện Hà Quảng, nhiều bản có “Kho thóc quần chúng”...

Nhờ sự cưu mang, đùm bọc, tiếp tế của nhân dân, các đội tự vệ và cứu quốc quân được bảo vệ, tiếp tục duy trì hoạt động, phát triển phong trào. Tháng 5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “Sửa soạn Tổng khởi nghĩa” đã chỉ rõ: “Dân ta muốn đánh đổ Nhật, Pháp không thể không sắm sửa và tập dùng vũ khí... Phải hết sức cổ động quần chúng nhiệt liệt tham gia các cuộc quyên tìm mua vũ khí hay các ngày mua vũ khí...”. Tuy nhiên, việc mua vũ khí rất khó khăn, do địch kiểm soát gắt gao, giá rất đắt, tiền quyên góp được không nhiều... Tháng 3/1944, Liên tỉnh uỷ Cao-Bắc- Lạng quyết định thành lập Xưởng vũ khí Lũng Hoàng (Cao Bằng) do Đồng chí Đặng Văn Cáp phụ trách. Giữa năm 1944, Xứ uỷ Bắc Kỳ thành lập Xưởng vũ khí Làng Chè (Từ Sơn, Bắc Ninh) do Đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân và Đồng chí Ngô Gia Khảm phụ trách. Ở Nam Bộ, Xưởng vũ khí Mớp Xanh cũng được thành lập với vốn liếng ban đầu là 15 đồng. Các xưởng này đã nghiên cứu sửa súng và sản xuất được hàng trăm quả lựu đạn cung cấp cho các đội vũ trang. Ngoài ra, các đội vũ trang đã tích cực cướp vũ khí địch trang bị cho ta. 

Tháng 8/1944, Trung ương Đảng ra lời kêu gọi “Sắm vũ khí đuổi thù chung”. Nhân dân các địa phương, các tổ chức quần chúng trong Mặt trận Việt Minh nhiệt tình hưởng ứng cuộc vận động góp tiền của vào “Quỹ mua súng”. Nhằm chuyển từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh quân sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: “... Tập hợp những cán bộ, chiến sĩ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất tổ chức thành đội vũ trang tập trung để hoạt động. Ta sẽ dùng hình thức vũ trang để gây ảnh hưởng cách mạng sâu rộng trong quần chúng. Tác chiến phải nhằm gây được ảnh hưởng tốt về chính trị... Chúng ta sẽ thành lập đội quân giải phóng”. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được lãnh tụ Hồ Chí Minh giao tổ chức và chỉ huy Đội. Trong chỉ thị thành lập Đội, Bác đặt tên Đội là “Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân” và chỉ rõ: “Những hoạt động đầu tiên của Đội sẽ nhằm đánh vào một vài đồn địch, cướp súng đạn của địch... Một tháng sau phải có hoạt động, trận đầu nhất định phải thắng lợi”. Về nguồn cung cấp của Đội, Người căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì không kẻ thù nào có thể tiêu diệt nổi”. Người cũng giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp 500 đồng (tiền Đông dương) làm quỹ vốn của Đội. Đây là ngân quỹ đầu tiên của quân đội ta.

17 giờ ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, thay mặt Đoàn thể (Đảng), đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố thành lập và giao nhiệm vụ cho Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Đội có 34 người, được chọn lọc rất kỹ lưỡng trong các đội du kích Cao-Bắc-Lạng; trang bị có 2 khẩu súng thập, 17 súng trường các loại, 14 súng kíp. Ông bà Tống Minh Phương và Việt kiều ở Côn Minh (Trung Quốc) gửi về cho đội 01 khẩu tiểu liên Mỹ (Sub Machine gun), 150 viên đạn và 6 quả bom lửa, 01 hộp bom nổ chậm và 500 đồng (Đông Dương) góp thêm vào vốn liếng ban đầu của Đội. Sau khi thành lập, Đội đã ra quân tiêu diệt đồn Phai Khắt (đêm 25/12/1944) và Nà Ngần (26/12/1944), mở đầu truyền thống đánh thắng trận đầu của quân đội ta.

Sau ngày thành lập, Đội luôn chủ động liên hệ chặt chẽ với nhân dân và các đoàn thể địa phương bảo đảm ăn, mặc, thuốc men cho đội viên. Nhân dân các địa phương cũng tích cực  tổ chức “Gạo tuyên truyền” và “Muối tuyên truyền” ủng hộ Đội. Một tuần sau ngày thành lập, từ một trung đội 34 chiến sỹ, Đội đã phát triển thành đại đội, được trang bị khá đầy đủ.

 

Đầu năm 1945, tình hình diễn biến rất mau lẹ. Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Để bảo đảm cho Tổng khởi nghĩa, Hội nghị chủ trương: Phá kho thóc của địch giải quyết nạn đói cho nhân dân và cung cấp cho các đội vũ trang; tích cực đánh chiếm các kho tàng; tước vũ khí và lương thực của địch... củng cố, mở rộng các khu căn cứ. Tại Hội nghị quân sự Bắc kỳ ở Hiệp Hoà, Bắc Giang (15-20/4/1945), Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận định: “Tình thế đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp lúc này... Chúng ta ở vào giai đoạn chiến lược phát động du kích để chuẩn bị phát động Tổng khởi nghĩa” và quyết định: Lập Quỹ uỷ ban quân sự cách mạng; phát hành một triệu tín phiếu của Việt Nam giải phóng quân. Hội nghị đã cử ra Uỷ ban quân sự Bắc kỳ gồm các đồng chí: Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị... và lập các cơ quan giúp việc uỷ ban (tham mưu, chính trị, quân nhu, quân y, tài chính...). Hội nghị cũng quyết định thống nhất Việt Nam Cứu quốc quân với Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân thành Việt Nam Giải phóng quân. Ngày 15/5/1945 lễ thành lập Việt Nam Giải phóng quân (13 đại đội) được tiến hành tại làng Quặng, Định Biên, Định Hoá, Thái Nguyên. 

Sau khi đánh bại cuộc càn quét của hơn 2.000 quân Nhật, ngày 04/6/1945, Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Khu giải phóng gồm: Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn và một bộ phận của Vĩnh Yên, Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái rộng trên 4 vạn ki-lô-mét vuông, với hơn 1 triệu dân. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Khu giải phóng là: cải thiện sinh hoạt, tăng gia sản xuất, tổ chức hợp tác xã, chế tạo vũ khí, phát hành công trái và trù bị phát hành giấy bạc... Trong thời gian ngắn, sản xuất, đời sống kinh tế-xã hội Khu giải phóng có bước phát triển vững chắc, cung cấp nguồn lực to lớn cho các đội vũ trang.

Nắm chắc thời cơ cứu nước đã tới, đêm ngày 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa phát Quân lệnh số 1 Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Các đơn vị giải phóng quân tập trung lực lượng, đánh vào các đô thị và trọng điểm của quân địch, chặn các đường rút lui, tước vũ khí của chúng... Dưới sự chỉ huy, chỉ đạo của đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trần Đăng Ninh, chiều 16/8, các đơn vị Giải phóng quân cùng nhân dân Thái Nguyên khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 19/8, khởi nghĩa ở Hà Nội giành thắng lợi; ngày 23/8, khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế thắng lợi... và ngày 25/8, ta khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn. Trong 12 ngày đêm, Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi huy hoàng, chính quyền cách mạng được thành lập trong cả nước. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mở đầu kỷ nguyên độc lập và tự do của dân tộc ta.

Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, từ các đội vũ trang đầu tiên với vũ khí trang bị thô sơ, bị địch càn quét, khủng bố gắt gao, nhưng do dựa chắc vào dân, ra sức xây dựng, củng cố, mở rộng căn cứ; vừa đánh giặc, vừa xây dựng, các đội vũ trang ngày càng phát triển, dẫn tới sự ra đời của Việt Nam Giải phóng quân. Đó là nhân tố góp phần quyết định cùng toàn dân Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và đi lên CNXH ở Việt Nam.

Đại tá, ThS TRẦN ĐÌNH QUANG (Bộ Tham mưu – TCHC)