Đoàn Hậu cần 83 (gọi tắt là Đoàn 83) và Tuyến hành lang 70 (gọi tắt là Tuyến 70) hoạt động trên địa bàn các huyện Trảng Bàng, Dầu Tiếng, Bến Cát, Châu Thành, Bình Dương, Gò Môn, Phước Sang, Sông Bé…. Hoạt động của Đoàn 83 diễn ra ở nhiều khu vực; mỗi khu vực thường có 1 đội vận tải, 1 đội dân công chuyển thương hoặc vận chuyển, 1-2 kho quân giới,  2-3 kho gạo, 1-2 trạm quân y, 1 đại đội vận tải bằng thuyền chèo tay hoặc máy, 1 đại đội bảo vệ. Ngoài ra, còn có 1 đội an dưỡng, 1 đại đội thu dung. Phương tiện vận chuyền gồm xe bò, xe thồ tải bộ, thuyền máy. Lực lượng của Tuyến 70 hoạt động ở phía Nam Đường 14A có 3 tiểu đoàn thồ tải, 2 đại đội bảo vệ, 3 kho quân giới và thực phẩm, 1 bệnh viện, 2 trạm xá; hoạt động ở phía Bắc Đường 14 A có 2 tiểu đoàn; trong đó, có 1 tiểu đoàn an dưỡng; 2-3 đại đội ô tô, công binh, bảo vệ; 3 bệnh viện, 1 tiểu đoàn tiếp nhận tân binh, các bộ phận trực thuộc. Các tiểu đoàn và đại đội chia thành từng cung độ để vận chuyển. Đường thồ của Tuyến phải vượt qua Đường 14A và 14B, 1 bến sông, 4 nơi giao hàng. Phía Bắc Đường 14A chủ yếu vận chuyển bằng ô tô, phía Nam chủ yếu bằng xe thồ.

Cho đến năm 1967, trong biên chế Đoàn 83 và Tuyến 70 không tổ chức cơ quan, phân đội phòng hoá và cũng không có kế hoạch phòng hoá. Thời kỳ này, địch đã dùng chất độc khai quang, chất độc CS để ngăn chặn ta, nhưng bộ đội vẫn còn xem nhẹ và không có ý thức phòng chống.

Cuối năm 1967, đầu năm 1968, phát hiện ta chuẩn bị mở chiến dịch Lộc Ninh - Phước Long và chuẩn bị cho đợt tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, địch tập trung sử dụng với mật độ cao và dầy đặc chất độc hoá học trên toàn tuyến, đặc biệt là khu vực trọng điểm phía Đông Sông Bé.  Nhiều khu vực địch rải chồng lên nhau nhiều lần, như khu vực đường đất đỏ đi Minh Thạnh, Dầu Tiếng, Ta Lon, Bầu Khai, suối ngang Bời Lời; phổ biến là dùng thùng CS -1 (60kg/thùng) và bi đông nhựa chứa bột CS (3,6kg/bi đông). Trong mỗi khu vực, địch dùng máy bay lên thẳng vận tải CH-47 để rải chất độc vào lúc 14-16 giờ trong ngày và thường thả từ 25- 30 thùng. Do đặc điểm địa hình các khu vực và khí hậu mùa khô nên chất độc tồn đọng lâu trên các con đường, bến bãi, khu kho, căn cứ, các trạm, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt và hoạt động của bộ đội. Chất độc địch rải theo dòng chảy sông suối làm nhiễm độc thêm nhiều khu vực tập kết hàng, nơi chuyển giao hàng bên bờ suối. Do bị chất độc của địch khống chế nên đường vận chuyển của ta bị ngăn chặn, hiệu suất vận chuyển giảm đi rõ rệt…

Trước tình hình đó, Đoàn 83 và Tuyến 70 khẩn trương tìm cách khắc phục. Được sự giúp sức của Phòng Hoá học Miền, cơ quan hoá học của Đoàn và Tuyến đã nhanh chóng được thành lập; hệ thống tổ chức phòng hoá được hình thành tới các đơn vị sơ sở. Bên cạnh lực lượng hoá học chuyên môn, còn có lực lượng hoá học kiêm nhiệm trong các đơn vị, làm nòng cốt triển khai và thực hiện các mặt công tác phòng hoá cho bộ đội.

Nghiên cứu những lần địch rải chất độc trên địa bàn, lực lượng hoá học nhận thấy âm mưu của chúng rất nham hiểm và có những điểm mới so với thời kỳ đầu. Đó là việc triệt hại ta về kinh tế, gây khó khăn về đời sống, nhất là đối với các đơn vị trực tiếp vận chuyển, các đơn vị gùi thồ hàng, các khu vực bến bãi, kho chứa hàng... Tại các vùng giáp ranh, địch tập trung phát quang, lập vành đai trắng ngăn chặn lực lượng ta cơ động, vận chuyển xuống vùng sâu, sau đó dùng máy bay đánh phá. Trong một số cuộc càn quét, địch dùng cả bình phun chất độc vào các hầm hào, địa đạo, làm cho một số lực lượng của ta bị nhiễm độc…

Lực lượng hoá học các đơn vị nhanh chóng bắt tay nghiên cứu và tổ chức huấn luyện các kiến thức về phòng hoá cho bộ đội, như: âm mưu, thủ đoạn của địch; tác hại của các loại chất độc, chất cháy địch đã và đang  sử dụng... Để bộ đội có thể phòng tránh tốt, một yêu cầu cần thiết đặt ra là phải có khí tài, mặt nạ phòng độc, biết phát hiện triệu chứng địch sử dụng chất độc, mang khí tài phòng độc kịp thời, đúng kỹ thuật. Mặt nạ phòng độc phải mang theo người, nhất là khi đi công tác hoặc lúc làm nhiệm vụ vận chuyển, hành quân chiến đấu. Khi đã bị địch đánh chất độc vào đội hình hành quân, vận chuyển, vào kho tàng, lương thực, thực phẩm, các cơ sở hậu cần, bộ đội phải biết cách xử trí, tiêu độc, cấp cứu cho người; sử dụng ống chống khói, chống ngạt; sử dụng mảnh tẩm sun-phát đồng chống cháy; tiến hành san lấp, tẩy rửa cho các đối tượng bị nhiễm.

Vấn đề bảo đảm khí tài phòng độc cho bộ đội được đặt ra theo tinh thần tận dụng tối đa các vật liệu sẵn có, ứng dụng mọi thứ có thể phòng độc được để phòng hoá cho mình. Do khí tài phòng độc chế sẵn ít nên các đơn vị đã chủ động tự làm khí tài ứng dụng bằng nguyên liệu sẵn có, có khả năng phòng hoá tương đối tốt, như: vải nhựa, nilon, bông, xô màn được dùng để làm mặt trùm và áo choàng phòng độc; các loại hoá chất như ête, cloruaphoc, cồn 900, ống thuỷ tinh dùng làm thuốc chống khói; phèn xanh (sun-phát đồng) để làm gạc dập tắt cháy có phốt pho…Những chiếc áo choàng dán bằng nilon, những chiếc băng miệng có lớp than xoan do bộ đội tự làm đã có tác dụng phòng chống khi địch phun rải chất độc. Nhiều loại dụng cụ phòng hoá như mặt trùm có thêm lớp than hút, có van một chiều thở ra, các bao tiêu độc cá nhân, các ống thuốc chống khói độc có hiệu năng phòng hoá tương đối tốt đã được Xưởng Khí tài hoá học Miền sản xuất, cấp phát cho bộ đội. Ngoài ra, bộ đội còn phối hợp với quân y làm thêm một số thuốc giải độc theo kinh nghiệm dân gian để chữa mũi, họng, mắt cho người bị nhiễm độc. Những đơn vị không được cấp phát khí tài được hướng dẫn cách dùng khăn mặt thấm nước vôi, nước tro, nước giải để che mặt, mũi khi gặp tình huống địch đánh chất độc. Một số đơn vị còn làm thêm hộp tiêu độc từ phèn xanh, xà phòng, vôi bột... Với những nỗ lực trên, hơn 80% quân số của 2 đơn vị đã được trang bị khí tài phòng hoá cá nhân. Các đơn vị còn chú trọng tổ chức diệt binh lực và binh khí tập kích hoá học của chúng.

Ngoài việc phòng hoá cho người, bộ đội còn được huấn luyện và tiến hành bảo đảm phòng hoá cho các loại trang bị, vũ khí, quân trang, quân dụng lương thực, thực phẩm, như đào hầm chứa hàng, làm hầm có mái che... Để bảo đảm nguồn nước sạch, bộ đội đào giếng lọc nước, có mái che, thả cá con để chủ động phát hiện khi có chất độc. Lương thực, thực phẩm được bao gói, che kín. Các hầm chứa có thiết bị thông gió, lọc độc, cửa che chắn. Tại các khu vực trọng điểm, các đơn vị thường xuyên luyện tập cho bộ đội các biện pháp khắc phục hậu quả chất độc. Cơ quan phòng hoá Đoàn và Tuyến còn tiến hành rút kinh nghiệm các vụ việc địch sử dụng chất độc đánh vào các khu vực, kịp thời thông báo cho các đơn vị và chỉ đạo trực tiếp công tác phòng hoá; đồng thời phổ biến nhiều kinh nghiệm hay cho các đơn vị học tập. Riêng các đơn vị trinh sát, các đơn vị chiến đấu được huấn luyện thêm về cách quan sát, trinh sát, phát hiện chất độc để có thể làm được nhiệm vụ chuyên môn hoá học khi cần.

Hoạt động phòng hoá của Đoàn 83 và Tuyến 70 trong một thời gian ngắn đã đem lại kết quả đáng kể, lực lượng hàng hoá vận chuyển không bị giảm sút, sức chiến đấu của bộ đội được bảo đảm. Ta đã khắc phục được nhiều tình huống địch sử dụng chất độc hoá học, bảo đảm thông đường, thông tuyến và vận chuyển liên tục, kịp thời chi viện cho các hoạt động quân sự của ta trong những chiến dịch tiếp theo.

ĐẠI TÁ – TS NGUYỄN THÀNH HỮU