Trước nguy cơ chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản hoàn toàn, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân đội vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam, mở rộng đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Ngày 06/3/1965, đơn vị lính Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng và đến cuối năm 1965, số quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam lên tới 18,4 vạn, cùng 30 vạn quân ngụy. Mỹ hy vọng nhanh chóng “tìm diệt” quân chủ lực của ta và hỗ trợ quân ngụy thực hiện kế hoạch bình định, xoay chuyển tình thế có lợi cho chúng. Để thực hiện âm mưu đó, Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 (Sư đoàn tinh nhuệ nhất của quân đội Mỹ, trang bị trên 550 máy bay trực thăng) được điều động gấp lên địa bàn Tây Nguyên.
Ngay sau khi quân Mỹ vào miền Nam, Quân ủy Trung ương chỉ đạo các chiến trường phương châm: “Đánh chủ lực ngụy, đồng thời sẵn sàng đánh quân Mỹ”. Theo đó, Bộ Tư lệnh Chiến trường Tây Nguyên (B3) quyết định mở Chiến dịch Plâyme ở khu vực Đức Cơ-Bàu Cạn-Plâyme (tỉnh Gia Lai)-(quân Mỹ thường gọi là “Thung lũng Ia-Đrăng”). Đồng chí Chu Huy Mân làm Tư lệnh, kiêm Chính uỷ; Đại tá Nguyễn Chánh, Thượng tá Nguyễn Hữu An là Phó Tư lệnh; Đại tá Huỳnh Đắc Hương là Phó Chính ủy, Trung tá Đặng Vũ Hiệp là Phó Chủ nhiệm Chính trị, Trung tá Lê Trí - Chủ nhiệm Hậu cần B3 làm Chủ nhiệm Hậu cần Chiến dịch. Tham gia Chiến dịch gồm có 3 trung đoàn bộ binh (Trung đoàn 320, 33 và 66), Tiểu đoàn Đặc công 952, Tiểu đoàn Pháo binh mang vác 200, 01 tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7mm và lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Gia Lai (01 tiểu đoàn tập trung, 01 đại đội đặc công, 01 đại đội súng cối; mỗi xã có 1 trung đội du kích...). Bộ Tư lệnh Chiến trường xác định mục đích và nhiệm vụ Chiến dịch Plâyme là “Tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, tiếp tục làm tan rã một bộ phận quân ngụy, đánh bại kế hoạch tiến công mùa khô của chúng, mở rộng vùng đứng chân của ta, làm chủ đại bộ phận rừng núi và nông thôn, nhất là vùng núi có ý nghĩa chiến lược”.
 |
Quân Mỹ đổ bộ xuống thung lũng I-a Đrăng trong Chiến dịch Plei-me năm 1965. Ảnh tư liệu. |
Về phía địch, lực lượng tham chiến gồm cả quân ngụy và quân Mỹ. Đồn Plâyme của quân ngụy có khoảng 500 tên với 12 cố vấn Mỹ; về vũ khí có 10 đại liên, 27 trung liên, 10 cối 60 và 80 mm, 01 cối 106,7 mm; có 6-7 lô cốt bê tông, tường cao 1,5 m, rộng 0,8 m. Cách phía Nam đồn chính khoảng hơn 1 km có tiền đồn Chư Ho, đồn Đức Cơ với quân số, vũ khí tương đương Đồn Plâyme. Lực lượng dự bị, quân ngụy có Sư đoàn dù và Sư đoàn thủy quân lục chiến, khi ta mở Chiến dịch chúng đưa vào tham chiến 2 chiến đoàn cùng với vũ khí, trang bị hiện đại.
Trước khi mở Chiến dịch Plâyme, Hậu cần B3 đã triển khai 2 cánh hậu cần: Cánh phía Bắc ở Tây bắc thị xã Kon Tum, giáp vùng ngã ba biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia; cánh phía Nam ở Tây nam thị xã Plâycu, tiếp giáp biên giới Việt Nam-Campuchia. Mỗi cánh hậu cần đều có kho dự trữ vật chất; 01 bệnh viện quân y có khả năng thu dung, điều trị từ 100-200 thương binh, bệnh binh. Dọc theo chiến trường có tuyến hành lang giao liên, phía Bắc nối với Đoàn 559, có đường gùi thồ tới Tà Sẻng, đi qua hai khu vực hậu cần của B3 tới phía Nam nối với tuyến giao liên của Miền (B2). Tuyến giao liên này vừa bảo đảm hậu cần cho bộ đội hành quân đường dài Bắc-Nam, vừa phục vụ chiến trường Tây Nguyên. Trên đất Campuchia, Hậu cần Chiến lược mở cửa khẩu V5 ở phía Nam sông Sê San để tiếp nhận nguồn hàng của Trung ương chi viện qua cảng Xihanúcvin đưa về chiến trường B3 (năm 1965, B3 tiếp nhận hơn 2.255 tấn vật chất các loại). Đối với Mặt trận B3 có các trạm thu mua vật chất, nhu yếu phẩm…để chuyển về chiến trường.
Ngày 12/9/1965, sau khi phổ biến ý định Chiến dịch, Hậu cần B3 bắt đầu triển khai công tác chuẩn bị. Bộ máy Hậu cần Chiến dịch Plâyme nhanh chóng được kiện toàn theo yêu cầu tác chiến. Hậu cần cánh Nam gồm các kho dự trữ vật chất, Bệnh viện Quân y 2, tiểu đoàn vận tải bộ và trạm sửa chữa quân giới được sử dụng làm căn cứ hậu cần (CCHC) Chiến dịch. Một bộ phận lực lượng của Hậu cần cánh Nam được tổ chức thành CCHC phía trước, bố trí ở vùng Ba Bỉ gồm bệnh viện tiền phương, kho đạn, ban vận tải dân công (có 2 trung đội vận tải bộ và 100 dân công) trực tiếp là tuyến sau của hậu cần các trung đoàn. Giữa CCHC Chiến dịch và CCHC phía trước có trạm tiếp chuyển T2. Ngoài ra, địa phương còn tổ chức các kho gạo rải rác trong các buôn làng để trực tiếp bảo đảm cho bộ đội.
Đến giữa tháng 10/1965, Hậu cần Chiến dịch đã triển khai xong các cơ sở bảo đảm. Bệnh viện Quân y 2 được tăng cường thêm cán bộ, nhân viên kỹ thuật, thuốc men, phương tiện, sẵn sàng thu dung điều trị 700 thương binh, bệnh binh. Các trung đoàn được cung cấp đủ đạn, lương thực, thực phẩm quy định. Để tăng khả năng bảo đảm tại chỗ, Hậu cần Chiến dịch tăng cường 1 tổ phẫu thuật, 100 dân công cho Trung đoàn 320 và tăng cường 100 dân công cho Trung đoàn 33. Song, tại CCHC, đạn mới tập kết được 30/50 tấn, lương thực còn thiếu so với qui định, nên hậu cần cánh Bắc phải tiếp tục chuyển bổ sung vào. Quá trình tác chiến, Hậu cần Chiến dịch đã linh hoạt chỉ đạo các đơn vị điều chỉnh, bố trí lực lượng hậu cần theo “bậc thang”, có chiều sâu, gọn nhẹ, tiện cơ động, bám sát đội hình, không phụ thuộc tuyến sau, không tổ chức bệnh xá cấp cứu cho thương binh nhẹ và bệnh binh ở phía trước; thực hiện “kho di động” trên vai bộ đội và lực lượng vận tải…
Chiến dịch Plâyme diễn ra trong 3 đợt: Đợt 1 (từ 19-29/10/1965), thực hiện chủ trương “đánh điểm diệt viện”, đêm 19/10 ta diệt đồn Chư Ho, vây ép đồn Plâyme; ngày 23/10 phục kích diệt Chiến đoàn Thiết giáp 3 ngụy Sài Gòn đến ứng cứu trên đường 21, sau đó ta tiếp tục đánh chiến đoàn thủy quân lục chiến ngụy đến giải tỏa và điều chỉnh đội hình, sẵn sàng đánh quân Mỹ phản kích. Đợt 2 (từ ngày 30/10-09/11/1965), ta điều chỉnh lực lượng, lập thế đánh địch giải tỏa. Đợt 3 (từ ngày 10-26/11/1965), Mỹ đưa Lữ đoàn 3/Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 vào chiến đấu. Ngày 14/11, với chiến thuật “nhảy cóc”, chúng đổ quân xuống khu vực núi Chư Pông định đánh bất ngờ vào sau lưng đội hình ta. Dựa vào thế trận chuẩn bị sẵn, ta chặn đánh quyết liệt, dồn quân Mỹ về thung lũng Ia-Đrăng, tiêu diệt gần hết 1 tiểu đoàn địch. Ngày 26/11/1965, Chiến dịch kết thúc. Trong trận này, ta đã tiêu diệt Tiểu đoàn 1 và 1 đại đội/Tiểu đoàn 2/Lữ đoàn 3/Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 1.700 tên Mỹ, 1.275 tên ngụy, phá hỏng 89 xe quân sự (có 42 xe tăng và xe bọc thép), bắn rơi 59 máy bay.
Thành công trong Chiến dịch này, công tác hậu cần đã đóng góp vai trò quan trọng. Mặc dù trong điều kiện Chiến trường B3 mới được hình thành, tác chiến ác liệt ở địa bàn rừng núi, dân cư thưa, kinh tế không phát triển, nguồn lực tại chỗ hạn chế... nhưng Hậu cần Chiến dịch đã nỗ lực bảo đảm cơ bản nhu cầu hậu cần phục vụ bộ đội, trong đó huy động từ nhân dân địa phương 70 tấn gạo, 2 tấn thực phẩm và 20.000 ngày công vận tải. Mức ăn của bộ đội trong Chiến dịch đạt bình quân: 600g gạo, 20g thịt hoặc cá khô, 20g muối, 10g lạc, 0,25g mắm/người/ngày.
Tuy nhiên, trong Chiến dịch vẫn còn một số hạn chế là: tỷ lệ thương vong cao lên tới 1.223 người (tương đương15,24% quân số), trong đó hy sinh 554 người (6,91% quân số). Về đạn, Hậu cần Chiến dịch đã chuẩn bị 43/50 tấn kế hoạch, nhưng mới cấp cho đơn vị 16,4 tấn (38,1% nhu cầu chuẩn bị). Trong công tác thu dung, cứu chữa, bảo đảm chính sách thương binh, bệnh binh còn hạn chế. Có đơn vị không bảo đảm kịp cơm, nước cho bộ đội và thương binh, bệnh binh. Kế hoạch bảo vệ hậu cứ, cơ quan, cơ sở hậu cần chưa chặt chẽ; vũ khí đạn bị tổn thất nhiều (tổn thất 445 khẩu súng các loại và 6,6 tấn đạn dược). Nguyên nhân là do việc nắm ý định và tình hình chiến sự chưa kịp thời, chưa lường hết âm mưu, thủ đoạn của địch, nên triển khai bố trí hậu cần còn đơn giản, không bám sát phía trước, phải điều chỉnh nhiều.
Mặc dù vậy, đây là chiến dịch do quân chủ lực đầu tiên của ta tiến công, đánh phủ đầu quân Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên. Thắng lợi của Chiến dịch Plâyme có ý nghĩa to lớn cả về chính trị lẫn quân sự ở phạm vi chiến lược “Dám đánh và đánh thắng quân Mỹ”. Khẳng định sự quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng chỉ đạo của Quân ủy Trung ương; tổ chức bố trí hậu cần hợp lý, linh hoạt; có phương thức bảo đảm hiệu quả trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của hậu cần chiến lược, chiến dịch và hậu cần tại chỗ. Những kinh nghiệm đó đã được nghiên cứu vận dụng vào các chiến dịch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và sau này.
Đại tá, THS TRẦN ĐÌNH QUANG (Bộ Tham mưu-TCHC)