Nhà Trắng biện minh rằng động thái này là biện pháp để đưa hoạt động sản xuất quay trở lại Mỹ, viện dẫn lý do an ninh quốc gia và những yêu cầu cấp thiết của chính sách “Nước Mỹ trước tiên”. Các công ty đã bắt đầu xây nhà máy tại Mỹ có thể sẽ không bị ảnh hưởng quyết định thuế quan mới.
Giới phân tích cho rằng, chính sách ấy lại đang biến thuốc-mặt hàng liên quan trực tiếp tới sinh mạng con người, thành công cụ mặc cả chính trị. Theo họ, trong lĩnh vực dược phẩm, thuốc không thể được xem là một loại hàng hóa thông thường. Việc các hãng dược phẩm di dời sản xuất về Mỹ không thể thực hiện trong vài tháng mà cần tới 5-10 năm, dẫn đến nguy cơ thiếu hụt thuốc, gián đoạn chuỗi cung ứng và giá cả tăng vọt trên toàn cầu.
 |
Tổng thống Donald Trump công bố thỏa thuận với Pfizer để bán thuốc với giá thấp hơn, tại Phòng Bầu dục của Nhà Trắng ngày 30-9. Ảnh: Reuters |
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) từng cảnh báo: “Tiếp cận dược phẩm là quyền con người cơ bản, không thể bị xem là công cụ thương mại”. Giờ đây, lời cảnh báo đó đã trở thành hiện thực. Ở nhiều nước đang phát triển, thuốc điều trị ung thư, rối loạn miễn dịch, bệnh hiếm gặp-vốn đã đắt đỏ-nay càng vượt xa tầm tay của bệnh nhân. Các tổ chức nhân đạo lo ngại sẽ có làn sóng tử vong sớm do bệnh nhân không còn khả năng mua thuốc.
Một số chuyên gia Mỹ cũng tỏ ra lo ngại. Tiến sĩ Aaron Kesselheim (Đại học Harvard) thẳng thắn: “Ông Trump có thể khiến người Mỹ được mua thuốc rẻ hơn nhất thời, nhưng thế giới sẽ phải trả giá bằng sự bất bình đẳng y tế sâu sắc hơn.”
Theo tờ Asia Times, chỉ vài giờ sau khi thông báo được đưa ra, cổ phiếu các hãng dược lớn ở Ấn Độ, Nhật Bản, Australia đã mất hàng tỷ USD giá trị. Nhưng người chịu thiệt hại thực sự không phải là giới đầu tư, mà là bệnh nhân-những người phụ thuộc vào nguồn thuốc nhập khẩu với giá phải chăng để duy trì sự sống.
Theo Giáo sư Kalipso Chalkidou, chuyên gia y tế toàn cầu tại Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London (LSE), “một liều thuốc rẻ hơn ở Mỹ hôm nay có thể khiến bệnh nhân ở châu Âu, Ấn Độ hay châu Phi phải trả giá cao hơn ngày mai”. Bà cảnh báo, việc “xuất khẩu gánh nặng chi phí” này có thể làm tăng 10 đến 15% giá thuốc tại châu Âu, đẩy hệ thống y tế công như Dịch vụ Y tế quốc gia Anh (NHS) vào tình trạng quá tải.
Tiến sĩ William Feldman, nhà kinh tế y tế thuộc Trung tâm USC Schaeffer (Mỹ), nhận định: “Mỗi USD mà các hãng dược phải chuyển để đối phó thuế quan là một USD bị mất khỏi quỹ nghiên cứu phương pháp điều trị mới. Điều đó khiến tương lai y học bị chậm lại”.
Tổng thống Donald Trump được cho là đang tận dụng chính sách dược phẩm để củng cố vị thế chính trị trước bầu cử. Các sáng kiến như TrumpRX.com-trang web bán thuốc trực tiếp không qua trung gian, hay thỏa thuận “giảm giá lịch sử” với Pfizer được quảng bá là mang lại lợi ích hàng chục tỷ USD cho người dân Mỹ.
Tuy nhiên, đằng sau “cuộc cách mạng giá thuốc” đó là một chuỗi các biện pháp bảo hộ thương mại mà chính Nhà Trắng thừa nhận có “tác dụng phụ tạm thời” đối với thị trường quốc tế. Chỉ cần một mắt xích nhỏ trong chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy, chẳng hạn nguyên liệu dược (API) từ Trung Quốc, quy trình thử nghiệm lâm sàng tại Ấn Độ, hay khâu đóng gói ở Đông Nam Á, đều có thể khiến dược phẩm khan hiếm khắp thế giới.
Trước chính sách dược phẩm gây tranh cãi của Mỹ, nhiều nước đã lên tiếng kêu gọi thiết lập “vùng miễn trừ nhân đạo” trong thương mại dược phẩm. Bộ trưởng Y tế Malaysia, quốc gia hiện giữ vai trò Chủ tịch ASEAN, đề xuất đưa dược phẩm thiết yếu vào danh mục hàng hóa không bị áp dụng thuế quan hoặc biện pháp trả đũa thương mại, tương tự như cách các nước bảo vệ năng lượng và lương thực trong khủng hoảng toàn cầu.
Rõ ràng, chính sách dược phẩm của Tổng thống Donald Trump phản ánh một nghịch lý khó chấp nhận vì trong khi tuyên bố bảo vệ người bệnh trong nước, Washington lại đang khiến hàng triệu người bệnh ở nơi khác trở nên yếu đuối hơn.
Giới chuyên gia cho rằng từ nghịch lý như vậy, thế giới cần rút ra bài học sâu sắc đó là an ninh y tế toàn cầu không thể bị hy sinh vì lợi ích chính trị cục bộ. Chính phủ các quốc gia, đặc biệt là các tổ chức khu vực như ASEAN hay Liên minh châu Âu (EU), cần chủ động xây dựng “hành lang an toàn” cho chuỗi cung ứng dược phẩm, bảo đảm thuốc thiết yếu không bị gián đoạn dù trong khủng hoảng thương mại hay xung đột địa chính trị.
Bên cạnh đó, các nước cần thúc đẩy cơ chế hợp tác công-tư trong sản xuất thuốc thiết yếu, tăng cường năng lực nội địa và đa dạng hóa nguồn cung. Điều này không chỉ giúp bảo đảm an ninh y tế mà còn giảm phụ thuộc vào các trung tâm sản xuất lớn, tránh để chính trị trở thành biến số nguy hiểm cho sức khỏe toàn cầu.
MAI NGUYÊN
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Quốc tế xem các tin, bài liên quan.