Ngày 10-2, tại Hội nghị An ninh quốc tế thường niên được tổ chức ở thành phố Mu-ních (Đức), Tổng thống Nga Vla-đi-mia Pu-tin đã có bài phát biểu quan trọng. Sau đây là toàn văn bài phát biểu:

Thế giới đơn cực chẳng có gì tương đồng với dân chủ

Tôi rất cảm ơn về lời mời tham dự một Hội nghị tầm cỡ như thế này, một diễn đàn có sự tham gia của các nhà chính trị, quân sự, các nhà kinh doanh, các chuyên gia từ hơn 40 nước trên thế giới.

Cơ chế của Hội nghị cho phép tôi có thể tránh được sự gò bó trong một khuôn khổ chính trị “chính thống quá mức”, và không phải nói những lời khuôn sáo ngoại giao dễ chịu, tròn trịa, nhưng trống rỗng. Nó cho phép tôi nói ra những gì mà tôi đang thực sự trăn trở về các vấn đề an ninh quốc tế. Nếu các đồng nghiệp của chúng tôi cảm thấy những nhận xét của tôi mang tính tranh luận quá gay gắt hoặc chưa được chính xác, thì tôi cũng mong các ngài lượng thứ cho- vì đây chỉ là một hội nghị.

Rõ ràng là chủ đề an ninh quốc tế là một phạm trù rộng hơn nhiều so với các vấn đề ổn định chính trị-quân sự. Đó là sự bền vững của nền kinh tế thế giới, là việc khắc phục nghèo đói, là an ninh kinh tế và phát triển đối thoại giữa các nền văn minh.

Tính chất tổng thể, không thể chia tách của nền an ninh cũng được thể hiện trong nguyên tắc cơ bản của nó: “An ninh của mỗi người là an ninh của tất cả mọi người”. Như F.Ru-dơ-ven đã nói trong ngày đầu tiên của Chiến tranh Thế giới lần thứ hai: “Khi hoà bình ở bất kỳ nơi nào bị phá vỡ, thì hoà bình ở khắp mọi nơi trên thế giới đều bị nguy hiểm và bị đe dọa”. Ngày nay, câu nói đó vẫn còn nguyên tính thời sự. Ngay cả chủ đề Hội nghị của chúng ta hôm nay là “Những cuộc khủng hoảng toàn cầu - trách nhiệm toàn cầu” cũng chứng tỏ điều này.

Chỉ cách đây hai thập kỷ, thế giới vẫn còn bị phân chia về ý thức hệ và về kinh tế, còn nền an ninh thế giới thì được đảm bảo bởi tiềm năng chiến lược to lớn của hai siêu cường. Sự đối đầu toàn cầu đã đẩy các vấn đề kinh tế và xã hội hết sức gay gắt ra ngoài rìa quan hệ quốc tế và chương trình nghị sự. Cũng như mọi cuộc chiến tranh, “chiến tranh lạnh” đã để lại cho chúng ta “những quả đạn pháo chưa nổ”, nếu diễn tả một cách hình tượng là như vậy. Đó là những khuôn mẫu ý thức hệ, những tiêu chuẩn kép và những thói quen khác của lối tư duy theo các khối. Thế giới đơn cực được đề xuất ngay sau “chiến tranh lạnh” cũng đã không đứng vững.

Tất nhiên, lịch sử nhân loại cũng biết đến các thời kỳ của tình trạng đơn cực và tham vọng thống trị thế giới. Chẳng có điều gì là chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại.

Song, thế giới đơn cực là gì? Cho dù người ta có tô vẽ một cách mỹ miều cho thuật ngữ này, thì nói cho cùng trên thực tế, nó cũng chỉ mang một nghĩa: Thế giới đơn cực có nghĩa là một trung tâm quyền lực, một trung tâm sức mạnh, một trung tâm ra quyết định. Đó là thế giới của một ông chủ, của một vị toàn quyền. Rốt cuộc, điều đó không chỉ nguy hại đối với tất cả những ai nằm trong khuôn khổ của hệ thống này, mà còn tai hại đối với chính bản vị toàn quyền đó, bởi vì nó huỷ hoại thực thể toàn quyền đó từ bên trong. Tất nhiên, điều đó chẳng có gì tương đồng với dân chủ. Bởi vì dân chủ như mọi người đều biết, là quyền lực của đa số, có tính đến lợi ích và ý kiến của thiểu số.

Nhân đây cũng xin nói thêm rằng, có những người thường xuyên lên lớp cho chúng tôi - nước Nga- về dân chủ. Nhưng chính họ chẳng rõ vì lẽ gì mà lại rất không muốn tự học về điều đó.

Các hành động đơn phương là nguyên nhân của những tấn thảm kịch mới

Tôi cho rằng, mô hình đơn cực không chỉ không chấp nhận được, mà nhìn chung là không khả thi đối với thế giới hiện nay. Không chỉ vì trong thế giới đương đại- tôi xin nhấn mạnh là chính trong thế giới đương đại này, một nước nắm quyền bá chủ sẽ không đủ nguồn lực chính trị - quân sự và kinh tế. Nhưng điều quan trọng hơn cả là chính mô hình đó không hiệu quả, bởi lẽ trong nền móng của nó không và không thể có cơ sở đạo lý cho nền văn minh hiện đại.

Nhưng, tất cả những gì đang diễn ra hiện nay trên thế giới, mà lúc này chúng ta mới chỉ đang bắt đầu bàn luận, lại chính là hậu quả của những mưu toan áp dụng quan điểm đó vào các công việc quốc tế - quan điểm thế giới đơn cực.

Vậy thì kết quả là như thế nào?

Các hành động đơn phương, thường là bất hợp pháp, đã không giải quyết được bất kỳ vấn đề gì. Không những thế, những hành động đó đã trở thành nguyên nhân gây ra những tấn thảm kịch mới của nhân loại và những lò lửa căng thẳng. Chúng ta đều thấy các cuộc chiến tranh, các cuộc xung đột cục bộ và khu vực đã không hề giảm đi. Ngài Ten-trích, Chủ tịch Hội nghị, vừa rồi có đề cập qua vấn đề này. Số người chết trong các cuộc xung đột đó không ít hơn, thậm chí còn nhiều hơn trước đây. Nhiều hơn một cách đáng kể - nhiều hơn rất nhiều!

Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến việc sử dụng một cách bừa bãi và ồ ạt trong giải quyết các công việc quốc tế đang đẩy thế giới vào vực thẳm của các xung đột triền miên. Rốt cuộc là không đủ lực lượng để giải quyết đồng bộ bất cứ một cuộc xung đột nào trong số đó. Việc tìm kiếm các giải pháp chính trị cho các cuộc xung đột này cũng không thể thực hiện được.

Chúng ta cũng đang chứng kiến các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế ngày càng bị coi thường. Hơn thế nữa, một số tiêu chuẩn, thậm chí hầu như toàn bộ hệ thống luật pháp của một nước, mà trước tiên là nước Mỹ, đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia của mình và áp đặt cho những nước khác trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, nhân văn. Xin hỏi, có ai thích điều này không? Có ai hài lòng với điều đó không?

Trong các công việc quốc tế ngày càng thấy rõ những mưu toan giải quyết vấn đề này hay vấn đề khác xuất phát từ cái gọi là sự hợp lý về chính trị dựa trên những tính toán chính trị nhất thời. Tất nhiên, điều đó là hết sức nguy hiểm. Tình hình đã đến mức không một ai cảm thấy an toàn nữa. Tôi muốn nhấn mạnh điều này - không ai cảm thấy an toàn, bởi lẽ không ai có thể nấp dưới cái ô bảo vệ chắc chắn của luật pháp quốc tế. Tất nhiên, chính sách như vậy chính là chất xúc tác cho một cuộc chạy đua vũ trang.

Chính việc lạm dụng vũ lực tất yếu thúc đẩy một số nước tìm cách sở hữu vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Nghiêm trọng hơn, đã xuất hiện những mối đe doạ hoàn toàn mới mà trước đây chúng ta cũng đã từng biết đến, nhưng hiện nay lại mang tính toàn cầu, như chủ nghĩa khủng bố.

Việc sử dụng vũ lực phải được LHQ thông qua

Tôi cho rằng, đã đến lúc chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc về toàn bộ cơ cấu của hệ thống an ninh toàn cầu. Trong vấn đề này, chúng ta cần xuất phát từ việc tìm kiếm một sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích của tất cả các chủ thể quan hệ quốc tế. Đặc biệt là vào lúc này, khi “diện mạo quốc tế” đang thay đổi rất rõ rệt và nhanh chóng do sự phát triển năng động của hàng loạt nước và khu vực.

Bà Thủ tướng Liên bang Đức cũng đã nhắc đến điều này. Xét về sức mua tương đương, tổng giá trị Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Ấn Độ và Trung Quốc gộp lại đã vượt Mỹ, còn tổng GDP của nhóm 4 nước BRIC (Bra-xin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc) đã vượt EU. Theo đánh giá của các chuyên gia, trong tương lai gần khoảng cách này sẽ ngày càng gia tăng. Không còn nghi ngờ gì nữa, tiềm lực kinh tế của các trung tâm mới trên thế giới chắc chắn sẽ được chuyển hoá thành ảnh hưởng đến chính trị toàn cầu và sẽ củng cố tính chất đa cực của thế giới. Trong bối cảnh đó, vai trò của ngoại giao đa phương ngày càng tăng lên. Tính công khai, minh bạch và có thể dự đoán được trong chính trị là không thể thay thế, còn việc sử dụng vũ lực phải được coi là biện pháp hết sức hãn hữu cũng giống như việc áp dụng án tử hình trong hệ thống luật pháp của một số quốc gia. Nhưng hiện nay, chúng ta đang chứng kiến những điều trái ngược, khi những nước cấm áp dụng án tử hình, ngay cả đối với những tên sát nhân và những tên tội phạm nguy hiểm, lại dễ dàng tham gia vào những chiến dịch quân sự bất hợp pháp làm cho cả trăm, nghìn dân thường thiệt mạng! Đồng thời cũng nảy sinh một câu hỏi khác: Chẳng lẽ chúng ta lại thờ ơ đứng nhìn những cuộc xung đột nội bộ khác nhau ở các nước, bỏ qua những hành động của các chế độ độc tài, bạo chúa, làm ngơ trước việc phổ biến vũ khí huỷ diệt? Về bản chất thì điều này chính là cốt lõi của câu hỏi mà Ngài Li-béc-man đã nêu ra cho Bà Thủ tướng Đức. Liệu chúng ta có thể thờ ơ trước những gì đang xảy ra hay không? Tôi xin mạn phép thử trả lời câu hỏi đó. Thưa các ngài, tất nhiên là không! Chúng ta không thể thờ ơ đứng nhìn những gì đang diễn ra!

Nhưng chúng ta có đủ phương tiện để chống lại những nguy cơ đó không? Tất nhiên là có. Hãy thử nhớ lại lịch sử cách đây không lâu. Có phải chính ở đất nước chúng tôi đã diễn ra sự chuyển đổi dân chủ trong hoà bình? Đó chính là chuyển đổi hoà bình đã xảy ra dưới chế độ Xô-viết - một sự chuyển biến trong hoà bình! Đã chuyển biến được một chế độ như thế! Với một chế độ cực kỳ mạnh, sở hữu số lượng vũ khí vô cùng lớn, bao gồm cả vũ khí hạt nhân, vậy mà vẫn có thể thực hiện được sự chuyển biến hoà bình! Tại sao ngày nay trong mỗi trường hợp tương tự lại phải ném bom, bắn giết? Chẳng lẽ trong những điều kiện không thể tiêu diệt lẫn nhau, thì chúng ta không có đủ văn hoá chính trị, sự tôn trọng các giá trị dân chủ và luật pháp.

Tôi tin rằng, cơ chế duy nhất thông qua quyết định sử dụng sức mạnh quân sự như một cách giải quyết cuối cùng chỉ có thể là Hiến chương LHQ. Do đó, tôi thực sự không hiểu những gì mà đồng nghiệp của chúng tôi đây, Ngài Bộ trưởng Quốc phòng I-ta-li-a, đã nói cách đây không lâu rằng việc sử dụng vũ lực chỉ được coi là hợp pháp khi nó được NATO, EU hoặc LHQ thông qua. Nếu ông ấy thực sự cho rằng như vậy thì chúng tôi và ông ấy có quan điểm khác nhau. Hay là tôi đã nghe nhầm. Chỉ có thể coi việc sử dụng vũ lực là hợp pháp khi nó được thông qua trên cơ sở và trong khuôn khổ LHQ. Chớ nên dùng NATO hoặc EU để thay thế LHQ. Khi LHQ thực sự tập hợp được sức mạnh của cộng đồng quốc tế để có thể phản ứng một cách hữu hiệu đối với những biến cố ở một nước nào đó, khi chúng ta loại bỏ được tình trạng coi thường luật pháp quốc tế, thì tình hình mới có thể thay đổi. Trong trường hợp ngược lại, tình hình quốc tế sẽ lâm vào ngõ cụt và số lần sai lầm chắc chắn sẽ tăng lên. Tất nhiên, cần phải làm sao để luật pháp quốc tế có tính chất phổ quát cả trong quan niệm lẫn trong việc vận dụng các chuẩn mực. Chúng ta cũng không được phép quên rằng cách thức hành động dân chủ trong chính trị nhất thiết đòi hỏi phải tiến hành bàn bạc và đưa ra các quyết định một cách cẩn trọng.

Quân sự hóa vũ trụ có thể gây ra những hậu quả khôn lường

Tình trạng đình trệ trong lĩnh vực giải trừ quân bị hiện nay cũng là một nguy cơ tiềm tàng gây bất ổn các mối quan hệ quốc tế. Nước Nga luôn tán thành việc nối lại đối thoại về vấn đề thiết yếu này. Điều quan trọng là phải duy trì được tính ổn định của cơ sở luật pháp quốc tế về giải trừ quân bị, trong đó phải đảm bảo tính kế thừa của tiến trình cắt giảm vũ khí hạt nhân.

Chúng tôi đã thoả thuận với Mỹ về việc cắt giảm các tiềm lực tên lửa hạt nhân chiến lược xuống còn khoảng 1.700 đến 2.200 đầu đạn trước ngày 31-12-2012. Nga chủ trương thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết của mình. Chúng tôi hy vọng các đối tác thực hiện điều đó một cách công khai, minh bạch và sẽ không cất vào đâu đó đôi ba trăm đầu đạn hạt nhân để phòng ngừa cho “một ngày xấu trời nào đó”. Và nếu như Ngài tân Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đang có mặt ở Hội nghị này tuyên bố cho chúng ta biết rằng, nước Mỹ sẽ không cất giấu những đầu đạn hạt nhân đó trong kho hoặc ở một nơi nào đó, thì tôi xin đề nghị tất cả mọi người đứng dậy hoan hô. Tôi nghĩ, nếu có thì đó sẽ là một tuyên bố vô cùng quan trọng. Nga đang và sẽ tiếp tục tuân thủ Hiệp ước về không phổ biến vũ khí hạt nhân và cơ chế kiểm soát đa phương đối với công nghệ chế tạo tên lửa. Những nguyên tắc được đưa ra trong các văn kiện này mang tính phổ quát.

Nhân đây, tôi xin nhắc lại rằng, trong những năm 80 của thế kỷ trước, Liên Xô và Hoa Kỳ đã cùng ký Hiệp ước thủ tiêu toàn bộ tên lửa tầm ngắn và tầm trung, nhưng văn bản này lại thiếu tính phổ quát.

Ngày nay, những loại tên lửa nói trên đã xuất hiện ở một loạt nước: CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, Ấn Độ, I-ran, Pa-ki-xtan, I-xra-en. Rất nhiều các quốc gia khác trên thế giới cũng đang tiến hành nghiên cứu hệ thống tên lửa này và có kế hoạch trang bị cho quân đội. Chỉ có Mỹ và Nga là cam kết không chế tạo những hệ thống vũ khí tương tự.

Rõ ràng, trong bối cảnh như vậy chúng tôi buộc phải suy nghĩ cách thức đảm bảo an ninh cho chính mình. Đồng thời, chúng ta cũng không được để xuất hiện các loại vũ khí hiện đại mới gây mất ổn định tình hình. Đấy là tôi còn chưa nói đến các biện pháp ngăn ngừa các lĩnh vực đối đầu mới, đặc biệt là trong vũ trụ. “Chiến tranh giữa các vì sao”, như mọi người đều biết không còn là chuyện viễn tưởng nữa, mà đã trở thành hiện thực. Ngay từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước, các đối tác Mỹ của chúng tôi trên thực tế đã thử nghiệm việc đánh chặn vệ tinh. Theo quan điểm của Nga, việc quân sự hóa vũ trụ có thể gây ra những hậu quả khôn lường đối với cộng đồng quốc tế - những hậu quả không kém gì việc khởi đầu kỷ nguyên hạt nhân. Chúng tôi đã nhiều lần đưa ra các sáng kiến nhằm ngăn chặn việc đưa vũ khí lên vũ trụ.

Hôm nay, tôi muốn thông báo với các bạn rằng chúng tôi đã hoàn tất dự thảo Hiệp ước về ngăn chặn việc bố trí vũ khí trên khoảng không vũ trụ. Trong thời gian tới dự thảo đó sẽ được chuyển cho các đối tác với tư cách là một đề xuất chính thức. Chúng ta hãy cùng nhau thảo luận vấn đề này.

Những bức tường và những ranh giới phân chia mới

Chúng tôi cũng rất lo ngại về những kế hoạch triển khai các bộ phận của hệ thống phòng thủ chống tên lửa ở châu Âu. Một cuộc chạy đua vũ trang nữa là không tránh khỏi, nhưng điều đó cần cho ai? Tôi không nghĩ là điều đó cần cho người châu Âu.

Hiện chưa có một nước nào trong số cái gọi là “các nước có vấn đề” đã sở hữu loại tên lửa thật sự đe dọa châu Âu với tầm bắn khoảng 5 đến 8 nghìn km. Trong tương lai gần cũng chưa thể xuất hiện loại tên lửa đó. Ngay giả thiết về một vụ phóng tên lửa, của CHDCND Triều Tiên chẳng hạn, nhằm vào lãnh thổ Mỹ mà lại phóng qua Tây Âu, thì điều đó rõ ràng trái với quy luật của đạn đạo. Điều đó là không thuận, không hợp lý, cũng giống như ở Nga chúng tôi thường nói “dùng tay phải để véo tai trái”.

Thêm nữa, khi có mặt tại Đức, tôi không thể không nhắc tới tình trạng khủng hoảng của Hiệp ước về các lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu. Hiệp ước về các lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu được ký năm 1999. Hiệp ước này đã tính đến thực tế địa chính trị mới là sự sụp đổ của Khối Hiệp ước Vác-sa-va. Từ đó đến nay đã 7 năm trôi qua, nhưng chỉ có 4 nước phê chuẩn văn kiện này, trong đó có Liên bang Nga.

Các nước NATO đã công khai tuyên bố rằng, họ sẽ không phê chuẩn hiệp ước trên, bao gồm cả các điều khoản về hạn chế bố trí các lực lượng vũ trang với số lượng nhất định ở các hướng, chừng nào Nga chưa rút hết các căn cứ quân sự của mình ra khỏi Gru-di-a và Môn-đô-va. Quân đội Nga đang rút khỏi Gru-di-a, thậm chí là với nhịp độ được đẩy nhanh. Chúng tôi và các đồng nghiệp Gru-di-a đã giải quyết các vấn đề này, và điều đó ai cũng biết. Ở Môn-đô-va cũng chỉ còn một lực lượng khoảng 1.500 quân nhân có nhiệm vụ gìn giữ hòa bình và bảo vệ các kho vũ khí còn tồn lại từ thời Liên Xô. Chúng tôi vẫn thường xuyên thảo luận với Ngài Xô-la-na về vấn đề này, ông ấy biết rõ lập trường của chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng tiếp tục hành động theo hướng đó.

Nhưng điều gì đang diễn ra? Chính lúc này, tại Bun-ga-ri và Ru-ma-ni đang xuất hiện cái gọi là những căn cứ tiền tiêu hạng nhẹ của Mỹ với 5.000 quân mỗi nơi. Như vậy, NATO đang đẩy các lực lượng tiền tiêu tới sát biên giới quốc gia của chúng tôi, còn chúng tôi thì không thể đáp trả lại những hành động này, vì phải triệt để tuân thủ Hiệp ước.

Theo tôi, rõ ràng là tiến trình mở rộng NATO hoàn toàn không liên quan tới việc hiện đại hóa liên minh này hoặc việc đảm bảo an ninh ở châu Âu. Ngược lại, đây là một nhân tố khiêu khích nghiêm trọng, làm giảm mức độ tin cậy lẫn nhau. Và chúng tôi hoàn toàn có quyền được hỏi thẳng rằng sự mở rộng này nhằm chống ai? Liệu những cam kết mà các đối tác phương Tây đưa ra sau khi giải thể khối Hiệp ước Vác-sa-va còn có giá trị nữa hay không? Những tuyên bố đó giờ đâu rồi? Thậm chí chẳng còn ai nhớ đến chúng nữa. Song, tôi xin phép được nhắc lại với cử tọa ở đây những điều người ta đã nói. Tôi xin trích dẫn một đoạn trong bài phát biểu của Ngài Véc-nơ, Tổng thư ký NATO, tại Brúc-xen ngày 17-5-1990. Lúc đó ông ấy nói rằng: “Bản thân việc chúng tôi không sẵn sàng bố trí quân đội NATO ở ngoài biên giới lãnh thổ CHLB Đức đã đem lại cho Liên Xô những đảm bảo vững chắc về an ninh”. Những đảm bảo đó đâu rồi?

Những viên đá, những tấm bê tông của bức tường Béc-lin từ lâu đã trở thành những món đồ lưu niệm. Nhưng không được quên rằng, bức tường Béc-lin có thể sụp đổ cũng là nhờ sự lựa chọn có tính lịch sử, trong đó có sự lựa chọn của dân tộc Nga chúng tôi, sự lựa chọn nghiêng về phía dân chủ và tự do, nghiêng về phía cởi mở và xây dựng quan hệ đối tác chân thành với tất cả các thành viên của đại gia đình châu Âu.

Nhưng hiện nay, người ta đang tìm cách áp đặt cho chúng tôi những bức tường và những ranh giới phân chia mới, đành rằng đó có thể là những bức tường ảo, nhưng dù sao chúng cũng đang chia cắt lục địa chung của chúng ta. Chẳng lẽ lại phải cần nhiều năm, nhiều thập kỷ nữa, cần phải trải qua một vài thế hệ các nhà chính trị nữa mới có thể “tháo dỡ” và “phá bỏ” những bức tường mới này?

Sáng kiến xây dựng các trung tâm đa quốc gia làm giàu u-ra-ni

Chúng tôi cũng nhất quán ủng hộ việc củng cố cơ chế không phổ biến hạt nhân. Cơ sở luật pháp quốc tế hiện hành cho phép chế tạo công nghệ sản xuất nhiên liệu hạt nhân để sử dụng vào mục đích hòa bình. Với một cơ sở hoàn toàn hợp pháp, nhiều nước muốn xây dựng ngành năng lượng hạt nhân của mình. Lấy đó làm nền tảng cho sự độc lập của họ về năng lượng. Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng, những công nghệ này có thể nhanh chóng được chuyển hóa thành công cụ tạo ra nguyên liệu sản xuất vũ khí.

Điều đó đang gây ra sự căng thẳng nghiêm trọng trong cộng đồng quốc tế. Vấn đề hạt nhân của I-ran là một ví dụ điển hình. Nếu cộng đồng quốc tế không đưa ra được một giải pháp sáng suốt để giải quyết xung đột lợi ích này, thế giới sẽ tiếp tục bị chấn động bởi những cuộc khủng hoảng đầy bất ổn tương tự, bởi vì chúng tôi và các vị đều biết rằng, không phải chỉ có một mình I-ran là “nước có vấn đề”. Chúng ta sẽ thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ phổ biến vũ khí hủy diệt.

Năm ngoái, Nga đã đưa ra sáng kiến xây dựng các trung tâm đa quốc gia làm giàu u-ra-ni. Chúng tôi hoàn toàn cởi mở để các trung tâm đó được xây dựng không chỉ ở Nga, mà còn ở nhiều nước khác, nơi mà năng lượng hạt nhân hòa bình đang tồn tại hợp pháp. Các quốc gia muốn phát triển năng lượng nguyên tử có thể được cung cấp nhiên liệu thông qua việc trực tiếp tham gia hoạt động của các trung tâm này, nhưng tất nhiên là dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA).

Những sáng kiến gần đây của Tổng thống Mỹ G.Bu-sơ cũng đồng điệu với đề xuất của Nga. Tôi cho rằng, Nga và Mỹ về khách quan đều quan tâm như nhau đến việc siết chặt cơ chế không phổ biến vũ khí hủy diệt và các phương tiện mang loại vũ khí đó. Chính hai nước chúng ta-hai nước đứng đầu về tiềm lực hạt nhân và tên lửa-cần phải là những nước đi đầu trong việc đề ra các biện pháp mới chặt chẽ hơn trong lĩnh vực không phổ biến hạt nhân. Nga đã sẵn sàng cho điều đó. Chúng tôi đang tiến hành tham khảo ý kiến với những người bạn Mỹ. Về đại thể, cần bàn bạc tới vấn đề xây dựng cả một hệ thống đòn bẩy chính trị và những biện pháp kích thích kinh tế. Với những biện pháp kích thích này, các quốc gia sẽ không còn quan tâm đến việc xây dựng các cơ sở riêng sản xuất nhiên liệu hạt nhân, nhưng vẫn có khả năng phát triển năng lượng nguyên tử, từ đó củng cố tiềm lực năng lượng của mình.

Giá năng lượng không phải là công cụ để đầu cơ chính trị

Nhân đây, tôi cũng xin đề cập sâu hơn về hợp tác năng lượng quốc tế. Bà Thủ tướng CHLB Đức cũng đã đề cập một cách ngắn gọn đến chủ đề này. Trong lĩnh vực năng lượng, Nga chủ trương xây dựng các điều kiện minh bạch và các nguyên tắc thị trường thống nhất đối với tất cả các nước. Rõ ràng, giá năng lượng cần phải do thị trường quyết định chứ không phải là công cụ để đầu cơ chính trị, gây áp lực kinh tế hoặc dọa dẫm.

Chúng tôi cởi mở, sẵn sàng hợp tác. Nhiều công ty nước ngoài đang tham gia vào những dự án năng lượng lớn nhất của chúng tôi. Theo nhiều đánh giá khác nhau, thì có đến 26% lượng dầu khai thác ở Nga-xin các vị hãy chú ý đến con số 26% này-là nhờ vốn đầu tư nước ngoài. Các vị hãy thử đưa ra cho tôi một ví dụ về sự tham gia với quy mô tương tự của các doanh nghiệp Nga trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế các quốc gia phương Tây. Không hề có trường hợp như vậy! Hoàn toàn không có.

Tôi cũng xin nói đến mối tương quan giữa vốn đầu tư nước ngoài vào Nga và vốn của Nga đầu tư vào các nước khác trên thế giới. Tương quan đó có tỷ lệ khoảng 15:1. Đó là bằng chứng rõ ràng về sự mở cửa và ổn định của nền kinh tế Nga.

An ninh kinh tế là một lĩnh vực mà trong đó tất cả các bên đều cần phải tuân thủ những nguyên tắc thống nhất. Chúng tôi sẵn sàng tham gia cạnh tranh một cách lành mạnh.

Kinh tế Nga đang ngày càng có thêm nhiều khả năng để làm điều đó. Sự năng động trên được các chuyên gia và các đối tác nước ngoài đánh gíá một cách khách quan. Gần đây, điểm xếp hạng của Nga trong Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế đã tăng lên: nước Nga đã chuyển từ nhóm rủi ro thứ tư lên nhóm thứ ba. Và nhân đây, tại Muy-ních hôm nay, tôi xin cảm ơn các đồng nghiệp Đức đã hỗ trợ cho việc thông qua quyết định tôi vừa nêu trên.

Tiếp theo, như các vị đã biết, quá trình gia nhập WTO của Nga đã đi đến giai đoạn chót. Trong quá trình đàm phán phức tạp và lâu dài đó, chúng tôi đã nhiều lần phải nghe về tự do ngôn luận, tự do thương mại, về các cơ hội bình đẳng, nhưng chẳng hiểu tại sao lại chỉ đòi hỏi tự do đối với thị trường Nga của chúng tôi thôi.

Một tay trao “viện trợ phát triển” còn tay kia “duy trì” sự lạc hậu

Còn một đề tài quan trọng nữa cũng có ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh toàn cầu. Hiện nay, người ta nói nhiều đến cuộc đấu tranh chống đói nghèo. Trên thực tế, điều gì đang diễn ra ở đây? Một mặt, có những nguồn tài chính, đôi khi không hề nhỏ, đang được dành cho các chương trình hỗ trợ các nước nghèo. Nhưng thành thật mà nói thì nhiều người ở đây cũng biết rằng, đôi khi các khoản tiền này lại được các công ty của chính các nước tài trợ “khai thác”. Mặt khác, tại các nước phát triển vẫn duy trì chế độ trợ cấp nông nghiệp và hạn chế các nước khác tiếp cận công nghệ cao.

Xin hãy gọi sự vật bằng chính tên gọi của nó: trên thực tế, một tay thì trao “viện trợ từ thiện”, còn tay kia thì không những vẫn “duy trì” sự lạc hậu kinh tế, mà còn thu lượm lợi nhuận cho mình. Tình trạng căng thẳng xã hội ở các khu vực kém phát triển đó tất yếu sẽ làm gia tăng chủ nghĩa cấp tiến và cực đoan, nuôi dưỡng chủ nghĩa khủng bố và các xung đột cục bộ. Và nếu như tất cả những điều đó xảy ra, ở Trung Đông chẳng hạn, trong bối cảnh ở đó nhìn nhận thế giới bên ngoài một cách gay gắt và coi đó là một thế giới bất công, thì chắc chắn sẽ nảy sinh nguy cơ mất ổn định toàn cầu. Rõ ràng là các nước lớn trên thế giới phải thấy được nguy cơ đó. Và phải căn cứ theo đó để xây dựng một hệ thống quan hệ kinh tế công bằng, dân chủ hơn trên thế giới-một hệ thống đem lại cho tất cả các quốc gia cơ hội và điều kiện để phát triển.

Đảm bảo an ninh không chỉ cho số ít

Khi phát biểu tại một hội nghị về an ninh, chúng ta không thể không nói đến hoạt động của Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu (OSCE). Như mọi người đều biết, tổ chức này được thành lập để xem xét tất cả-tôi xin nhấn mạnh là tất cả, mọi khía cạnh của nền an ninh, như chính trị-quân sự, kinh tế, nhân văn trong mối liên hệ mật thiết với nhau.

Hiện tại, chúng ta thấy gì trên thực tế? Chúng ta thấy mối tương quan đó đang bị phá vỡ. Người ta đang tìm cách biến OSCE thành một công cụ tầm thường nhằm đảm bảo các lợi ích đối ngoại của một hoặc một nhóm nước trong quan hệ với các nước khác. Và bộ máy quan liêu của OSCE, một bộ máy hoàn toàn không gắn với các nước sáng lập ra tổ chức này, cũng đã bị cắt xén cho phù hợp với nhiệm vụ này. Người ta cũng đã “cắt xén” trình tự thông qua quyết định và sử dụng cái gọi là “các tổ chức phi chính phủ” cho phù hợp với nhiệm vụ đó. Về hình thức thì đúng là độc lập thật đấy, nhưng thực chất những tổ chức này được tài trợ có mục đích, mà như vậy có nghĩa là bị kiểm soát.

Theo các văn kiện cơ bản của OSCE, trong lĩnh vực nhân văn, tổ chức này có sứ mệnh hỗ trợ các nước thành viên tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền khi họ yêu cầu. Đây là một nhiệm vụ quan trọng. Chúng tôi ủng hộ nhiệm vụ này. Nhưng nhìn chung điều này không có nghĩa là được can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, nhất là ép buộc họ phải sống và phát triển như thế nào. Rõ ràng, sự can thiệp như vậy hoàn toàn không có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các quốc gia dân chủ thực sự, mà ngược lại, còn làm cho họ trở nên phụ thuộc, hậu quả là bị mất ổn định về chính trị và kinh tế. Chúng tôi hy vọng rằng OSCE sẽ thực hiện những nhiệm vụ trực tiếp của mình và xây dựng quan hệ với các quốc gia có chủ quyền trên cơ sở tôn trọng, tin cậy và minh bạch.

Để kết thúc bài phát biểu này, tôi xin nêu một vấn đề sau. Chúng tôi và cá nhân tôi rất nhiều lần được nghe các đối tác của Nga, trong đó có các đối tác châu Âu, kêu gọi Nga hãy đóng vai trò tích cực hơn nữa trong các công việc quốc tế. Do đó, tôi xin phép được đưa ra một lời bình luận nhỏ. Có lẽ chẳng cần phải thúc đẩy, kích thích chúng tôi làm việc đó. Nga là một đất nước có hơn 1.000 năm lịch sử, và thực tế nước Nga đã luôn luôn tận dụng đặc quyền thực hiện chính sách đối ngoại độc lập.

Ngày nay, chúng tôi cũng không có ý định thay đổi truyền thống đó. Đồng thời chúng tôi thấy rất rõ thế giới đã đổi thay như thế nào, chúng tôi đánh giá một cách thực tế khả năng và tiềm lực của mình. Và tất nhiên, chúng tôi cũng mong được làm việc với những đối tác tự chủ và có trách nhiệm, có thể cùng chúng tôi nghiên cứu xây dựng một trật tự thế giới công bằng và dân chủ, bảo đảm an ninh và phồn thịnh cho tất cả mọi người, chứ không chỉ cho một số ít trong thế giới đó.