Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về sức mạnh quân sự, chính trị, ngoại giao, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris ngày 27-1-1973, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thực chất là chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Mỹ phải rút toàn bộ quân viễn chinh về nước.

“Pháo đài bay” B-52 của Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam năm 1972. Ảnh tư liệu

Trong hồi ký của mình, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra cho rằng: “Mỹ đã phạm sai lầm lớn trong chiến tranh Việt Nam-những sai lầm cơ bản có tính chiến lược. Mỹ đã không đo lường hết được ý thức dân tộc của con người Việt Nam khi đổ quân vào Việt Nam, ném bom miền Bắc lần này, phiêu lưu đến mức tung không lực khổng lồ đánh thẳng vào các thành phố miền Bắc, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội và thành phố cảng Hải Phòng. Mỹ cũng không nghĩ đến, về mặt khí tài và kỹ thuật quân sự, Quân đội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có thể trừng trị được các “át chủ bài” trên không của Mỹ và cuối cùng Mỹ đã không hiểu lịch sử Việt Nam xa xưa và hiện tại…”.

Trong cuốn sách “Lời phán quyết về Việt Nam”, G.Am-tơ viết: “Trong 12 ngày tiếp theo, từ ngày 18 đến 30-12-1972, Mỹ ném xuống Hà Nội, Hải Phòng hơn 35.000 tấn bom, đạn. Lầu Năm Góc cho rằng, các trung tâm dân cư cũng như các mục tiêu quân sự sẽ bị quét sạch chỉ còn là những đống gạch vụn. Toàn bộ các vùng lân cận đã bị xóa sạch, các phương tiện vận tải hoàn toàn bị phá hủy và những bệnh viện quan trọng bị tàn phá. Bệnh viện Bạch Mai, cơ sở y tế hiện đại nhất của Hà Nội với hơn 900 giường bệnh đã bị biến thành nơi đổ nát… Tổng thống R.Ních-xơn đã đánh giá thấp quyết tâm của nhân dân Bắc Việt Nam… Khoảng 33 đến 35 máy bay B-52 chở gần 100 phi công Mỹ đã bị bắn rơi trong 12 ngày đêm”.

Đại tá Săm-mơ trong cuốn “Almanach về chiến tranh Việt Nam”, năm 1985, đã viết: “Bắc Việt Nam là một trong các hệ thống phòng không có hiệu quả nhất trong lịch sử. Hệ thống này gồm máy bay tiêm kích MiG-17 và MiG-21, các tên lửa đất đối không SAM-2 cùng hàng nghìn vũ khí khác từ súng phòng không 12,7mm đến pháo 100mm. Pháo cao xạ buộc máy bay tiến công phải bay cao, dễ bị SAM và MiG đánh. Ngược lại nếu bay thấp để tránh SAM và MiG thì máy bay dễ bị sát thương bởi hỏa lực phòng không tầng thấp của Bắc Việt Nam. Các kíp bay chiến đấu của không lực Mỹ vào miền Bắc Việt Nam có cảm giác như lao vào lưới lửa phòng không”.

Tuần báo Mỹ “AW&ST”, số ra ngày 12-2-1973 đã viết về chiến dịch Linebacker II như sau: “Đây là một cuộc chiến tranh nhiễu điện tử quy mô lớn đầu tiên giữa hai phe tiến công và phòng thủ đều mạnh. Chiến tranh điện tử đòi hỏi có chiến thuật linh hoạt, khôn khéo và trang bị hiện đại. Những trận đánh ở Hà Nội đã chứng minh điều đó… Hà Nội theo dõi các tín hiệu nhiễu trên màn radar do máy gây nhiễu trên B-52 phát ra, giao hội các nguồn nhiễu, tính toán đường bay rồi phóng hàng loạt tên lửa dọc theo đường bay phán đoán… thiệt hại B-52 lên đến đỉnh cao”.

Nhận xét về “Chiến dịch Linebacker II, tướng Gióoc-giơ I-đơ, cựu Phó Tham mưu trưởng phụ trách kế hoạch và tác chiến của không quân Mỹ đã viết trong Tạp chí “Không quân” tháng 6-1973, như sau: “Bắc Việt Nam có lực lượng phòng không dày dạn kinh nghiệm nhất thế giới, nhất là kinh nghiệm phóng tên lửa SAM để hạ máy bay”.

Trong cuốn sách nhan đề: “Người Mỹ ở Việt Nam” xuất bản năm 1980, Gu-en-tơ Le-vi viết: “Chiến dịch Linebacker II kéo dài 12 ngày đêm, mặc dù thời tiết chỉ cho phép hoạt động khoảng 12 giờ/ngày. Trong 12 ngày, đã có 729 phi vụ hoạt động của B-52 và 1.000 phi vụ của máy bay cường kích, 20.370 tấn bom được ném xuống Bắc Việt Nam. Các cuộc đánh phá chủ yếu tập trung vào các mục tiêu xung quanh Hà Nội, Hải Phòng, bao gồm các nút giao thông, nhà ga xe lửa, kho tàng, nhà máy điện, sân bay… Việc ném bom đã gây ra tổn thất lớn cho Bắc Việt Nam, song lại không thể ngăn cản được Hà Nội tiến công Nam Việt Nam. Cả chiến dịch “Sấm rền” và “Linebacker II” đều không mang lại sự nhượng bộ quan trọng của Bắc Việt Nam. Cái giá mà Mỹ phải trả cho cuộc chiến tranh không quân ở Bắc Việt Nam là quá đắt về mặt tài chính và chính trị…”.

Trong bài viết nhan đề “Cuộc hành quân Linebacker II” đăng trên Tạp chí “Không quân” năm 1997, Oa-tơ Boi-nơ viết: “Vào thời điểm năm 1972, sau một thời gian xây dựng, Bắc Việt Nam đã có một hệ thống phòng không tích hợp mạnh nhất thế giới. Quy mô và sức mạnh của hệ thống phòng không-không quân này mạnh đến mức nhiều người tin rằng, các máy bay ném bom B-52, “át chủ bài” của lực lượng tiến công tầm xa của Mỹ khó mà sống sót… Có ba nguyên nhân dẫn đến tổn thất của B-52. Thứ nhất, các radar của Bắc Việt Nam có thể vô hiệu hóa các biện pháp đối phó điện tử của B-52. Thứ hai, diện tích phản xạ hiệu dụng của B-52 quá lớn. Thứ ba, tốc độ gió quá lớn làm giảm tốc độ của máy bay… Chẳng bao lâu khi chiến dịch Linebacker II kết thúc và tù binh chiến tranh Mỹ được trở về Mỹ, Hà Nội bắt đầu cảm thấy không còn mối đe dọa thực sự của một Chiến dịch Linebacker II nữa nên đã quyết định giải phóng Nam Việt Nam…”.

Rô-mét Chan-đra, Tổng thư ký Hội đồng Hòa Bình thế giới, trong bài đăng trên Báo “Cứu quốc” ngày 14-12-1973 viết: “Tại Hà Nội anh hùng… người ta đã thấy rõ một dân tộc không đầu hàng và không hề sợ sệt, quyết tâm làm theo Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Tại Hà Nội anh hùng đã đập tan vĩnh viễn câu chuyện thần thoại của những B-52”. Hãng Reuters ngày 29-12-1972 thì cho rằng “cái đà mất máy bay, phi công này nếu Mỹ còn tiếp tục ném bom thì chỉ đến ngày 28-4-1973, toàn bộ lực lượng không quân chiến lược của Mỹ ở vùng Đông Nam Á sẽ hết nhẵn”.

Một phi công Mỹ tham gia chiến dịch Linebacker II bị bắt làm tù binh là Uy-li-am Con-li đã thừa nhận như sau: “Tôi có thể khẳng định rằng, nếu B-52 còn bay vào thì còn bị bắn rơi nhiều nữa. Các ông chiến đấu dũng cảm, mưu trí, có chính nghĩa. Tôi tin rằng nhất định các ông sẽ thắng vì lịch sử ở phía các ông, đạo lý cũng ở phía các ông”./.

Đại tá, PGS, TS TRẦN NAM CHUÂN, Nguyên cán bộ Viện Chiến lược Quốc phòng