Thành tựu mang tính điển hình của thế giới
Giữa năm 1975, Việt Nam là một quốc gia bị tàn phá nặng nề do chiến tranh, thuộc nhóm các nước nghèo bị bao vây cấm vận. Đến năm 2010, Việt Nam đã rời nhóm các nước nghèo nhất để gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình.
Bước tiến vượt bậc này, theo ông Jean-Pierre Archambault, nguyên Tổng thư ký Hội Hữu nghị Pháp-Việt, là nhờ công cuộc đổi mới được tiến hành từ năm 1986. Ông Archambault cho rằng, đổi mới đã kích hoạt sự phát triển và tiến bộ đáng kể tại Việt Nam. Việt Nam đã trải qua một quá trình chuyển đổi thành công ngành nông nghiệp, từ đó vượt lên trên cả mục tiêu tự cung tự cấp lương thực. “Đây thực sự là nỗ lực đáng nể khi có thể thực hiện chỉ trong vòng 25 năm, một khoảng thời gian ngắn so với bề dày lịch sử của đất nước”, ông Archambault nhấn mạnh.
Có được bước tiến bộ vượt bậc trên phải kể đến nỗ lực xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam. Báo cáo nghèo đa chiều 2021 do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phối hợp thực hiện với sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia (DFAT) và hợp tác kỹ thuật từ Trung tâm Phân tích và Dự báo thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam (CAF/VASS) công bố hồi tháng 7-2022 cho biết, tỷ lệ nghèo đa chiều ở Việt Nam trong thập kỷ qua đã giảm liên tục và đáng kể, từ 18,1% năm 2012 xuống 10,9% năm 2016 và 4,4% năm 2020.
 |
Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Pa Ủ (Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu) giúp bà con dân tộc La Hủ ở bản Hà Si, xã Pa Ủ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu khai hoang ruộng trồng lúa để bảo đảm lương thực tại chỗ. Ảnh: TTXVN |
Báo cáo đánh giá, “cứ 10 người thì có một người nghèo về thu nhập trong năm 2014, nhưng một nửa trong số họ đã thoát nghèo bền vững trong giai đoạn trước đại dịch”. “Thành tựu xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam trong một thập kỷ qua rất ấn tượng, mang tính điển hình của thế giới, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia thực hiện thành công, sớm hơn dự định nhiều mục tiêu thiên niên kỷ do Liên hợp quốc phát động”, báo cáo khẳng định.
Còn theo nhận định của Ngân hàng Thế giới (WB), trong thập kỷ qua, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm đầy ấn tượng. Dựa theo chuẩn quốc gia thu nhập trung bình thấp của WB, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm từ 16,8% xuống còn 5% trong giai đoạn 2010-2020, với hơn 10 triệu người dân đã được hỗ trợ thoát nghèo. “Xóa đói, giảm nghèo đã giúp đời sống của người dân các tỉnh vùng cao của Việt Nam, kể cả đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện đáng kể”, Giáo sư Carl Thayer thuộc Trường Đại học New South Wales (Australia) nhận định.
Đầu tư cho con người là mục tiêu để phát triển bền vững
Xác định đầu tư cho con người để đạt được mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách an sinh xã hội bao phủ rộng khắp. Đến nay, Việt Nam đã phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đã xóa được “xã trắng” về giáo dục mầm non.
Sau 8 năm triển khai thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020”, Việt Nam đã xóa mù chữ cho 295.308 người trong độ tuổi 15-60, nâng tỷ lệ biết chữ độ tuổi 15-60 là 97,85% và tỷ lệ biết chữ độ tuổi 15-35 là 99,3%.
Việt Nam cũng đã ban hành nhiều chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho các nhóm yếu thế, trong đó tập trung hỗ trợ học sinh vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Nếu Báo cáo phát triển con người của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) trước đây cho thấy chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 1990 là 0,472, nằm trong nhóm các nước có chỉ số HDI thấp thì đến năm 2016, chỉ số này đạt mức 0,682 và tăng lên 0,706 năm 2020 nằm trong nhóm có HDI cao của thế giới.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác bình đẳng giới, được thế giới công nhận là một trong 10 quốc gia thực hiện tốt nhất mục tiêu số 5 về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái trong các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Những thành tựu đạt được cũng trở thành tiền đề, thành động lực mạnh mẽ để Việt Nam tiếp tục thực hiện các mục tiêu về bình đẳng giới, góp phần đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.
Không chỉ tập trung đầu tư cho con người, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng thực hiện tốt chính sách đối với người có công, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân.
Thống kê của Bộ Y tế cho thấy, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ 81,7% năm 2016 lên 90,85% năm 2020. Các đối tượng chính sách như người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng kinh tế-xã hội khó khăn, trẻ em dưới 6 tuổi, người trên 80 tuổi (năm 2020, 99% người cao tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế)... được ngân sách nhà nước hỗ trợ mua bảo hiểm y tế. Tỷ lệ trạm y tế xã có đủ điều kiện khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế tăng từ 90% năm 2016 lên 92,6% năm 2019 và đạt 92,8% năm 2020.
Theo WB, tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam đã tăng từ 70,5 năm 1990 lên 75,4 năm 2019, cao nhất giữa các quốc gia trong khu vực có mức thu nhập tương đương.
Trong bối cảnh thế giới đương đầu với đại dịch Covid-19, Việt Nam đã rất nỗ lực để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và chăm sóc sức khỏe cho người dân, đồng thời duy trì tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Trong bài viết đăng trên trang web scribd.com, Giáo sư Thayer nhấn mạnh: “Việt Nam theo đuổi chính sách ngoại giao Covid-19 để có được các loại vaccine cần thiết tiêm chủng cho người dân. Việt Nam tiến hành phong tỏa trong các tình huống cần thiết. Kết quả cuối cùng là Việt Nam đã có thể từ bỏ chính sách “không Covid” và kiểm soát thành công biến thể Omicron”...
Có thể nói, những nỗ lực của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm bảo đảm người dân được thụ hưởng các quyền con người cơ bản, đặc biệt trong bối cảnh chịu tác động nặng nề của đại dịch, là minh chứng cho chính sách nhất quán, xuyên suốt về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, như quan điểm Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII: Người dân vừa là trung tâm, vừa là chủ thể.
(còn nữa)
LINH OANH