QĐND - Thủy điện nhỏ và vừa phải đầu tư nhiều, nhưng lợi nhuận thu được không được bao nhiêu, thậm chí bị lỗ. Thị trường điện cạnh tranh cũng chưa dành cho họ, ít nhất cho đến giai đoạn 2015-2022. Điều này gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh thủy điện nhỏ và vừa, vốn đang có đóng góp không nhỏ cho việc thúc đẩy kinh tế - xã hội ở những vùng sâu, vùng xa phát triển.

Đầu tư nhiều

Thực tế hiện nay cho thấy, hầu hết các nhà máy thủy điện nhỏ và vừa nằm ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Đây là những vùng có cơ sở hạ tầng yếu kém, do vậy, các cơ sở thủy điện nhỏ và vừa hầu hết phải tự đầu tư cho việc phát triển cơ sở hạ tầng, phục vụ hoạt động đầu tư, sản xuất và kinh doanh. Số vốn bỏ ra đầu tư cho hạ tầng lớn, nhưng phục vụ nhà máy sản xuất điện có quy mô nhỏ, nên suất đầu tư của các cơ sở thủy điện nhỏ và vừa rất lớn.

Theo ông Nguyễn Đức Đạt (Hiệp hội Năng lượng Việt Nam), suất đầu tư của thủy điện nhỏ và vừa luôn cao hơn suất đầu tư của thủy điện lớn khoảng 5 tỷ đồng/MW. Cụ thể, theo thống kê từ 25 công trình thủy điện lớn đã được xây dựng và đưa vào vận hành, tính theo mặt bằng giá năm 2010, thì thủy điện lớn có suất đầu tư khoảng 20-25 tỷ đồng/MW, trừ những công trình thủy điện đặc biệt có nhiệm vụ chống lũ và cấp nước cho hạ du. Trong khi đó, suất đầu tư của thủy điện nhỏ và vừa lên tới 25-30 tỷ đồng/MW. Thống kê được ông Đạt đưa ra cho thấy, thậm chí, có những công trình thủy điện nhỏ và vừa phải đầu tư lên tới hơn 30 tỷ đồng/MW. Chẳng hạn, Nhà máy Thủy điện Plei-krông (Kon Tum) có suất đầu tư 45 tỷ đồng/MW, Nhà máy Thủy điện Quảng Trị có suất đầu tư 38 tỷ đồng/MW. Như vậy, ở những nhà máy thủy điện nhỏ và vừa này, suất đầu tư của họ cao gần gấp đôi suất đầu tư trung bình của các nhà máy thủy điện lớn.

Nhà máy Thủy điện Sông Ba Hạ (Phú Yên). Ảnh: Hải Hà

Từ tỉnh miền núi phía Bắc, Lào Cai, nơi có 20 nhà máy thủy điện nhỏ và vừa với công suất 257,5MW đã hòa mạng lưới điện quốc gia và 26 nhà máy khác đang thi công dở dang, Phó chủ tịch Hội Doanh nghiệp Lào Cai, ông Vũ Ngọc Cừ, rất hiểu những khó khăn của các cơ sở thủy điện nhỏ và vừa. Bên cạnh những khó khăn về cơ sở vật chất ở vùng sâu, vùng xa, ông Cừ còn đề cập tới nhiều yếu tố khó khăn khác khiến các nhà đầu tư phải đau đầu như: Trượt giá do suy thoái kinh tế, chính sách tín dụng, thiên tai, lũ lụt, hạn hán kéo dài… Cũng khẳng định, các nhà máy thủy điện nhỏ và vừa ở Lào Cai có suất đầu tư rất cao, khoảng 25-30 tỷ đồng/MW, nhưng ông Cừ cho hay, đó vẫn chưa phải là con số cuối cùng. Nếu tính cả chi phí đầu tư đường dây truyền tải đến điểm đấu nối với điện lưới quốc gia (đường dây 35KV hoặc 110KV, tùy theo công suất từng nhà máy) thì suất đầu tư sẽ còn lớn hơn nữa.

Thu lợi ít

Theo thống kê, giá mua điện do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thực hiện với các nhà máy thủy điện nhỏ và vừa trong nước trung bình khoảng 800-900 đồng/kWh. Các doanh nghiệp kinh doanh thủy điện nhỏ và vừa cho rằng, mức giá 800-900 đồng/kWh như trên là quá thấp, khiến các doanh nghiệp không thể đạt được mức doanh thu theo yêu cầu. Mức doanh thu ấy thậm chí chưa đủ cho các khoản chi phí, đặc biệt là những khoản chi phí tăng thêm do tăng lãi suất, thuế tài nguyên tính không sát với thực tế giá bán điện tại các nhà máy và phí dịch vụ rừng.

Theo ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, thủy điện nhỏ và vừa có suất đầu tư cao, nhưng hệ số thu hồi vốn (BTC) lại thấp, nên hiệu suất đầu tư không cao. Trong khi đó, các nhà máy thủy điện nhỏ và vừa không chỉ phải bán điện với giá thấp, mà thời gian phát điện cũng không nhiều nên phải kéo dài thời gian thu hồi vốn. “Giá đã đành rồi, nhưng thời lượng phát trong năm mà ít thì thời gian thu hồi vốn rất chậm, thậm chí là cực kỳ chậm, và làm cho doanh nghiệp có thể phá sản, hoặc thu nhập không cao. Sản lượng không cao dẫn tới hậu quả là khấu hao của dự án đó sẽ kéo ra rất dài”, ông Ngãi nói với phóng viên.

Ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam: Giá điện ở Việt Nam đã là cao

Việc tăng giá điện phải tùy thuộc vào thị trường, tùy thuộc vào đời sống nhân dân, tùy thuộc vào nền kinh tế xã hội. Điện bán lẻ của chúng ta hiện nay đã đạt tới 1.506 đồng/kWh rồi, không phải nhỏ. Tính ra đô-la là 7,2cent, không còn rẻ. Không thể nói một cách vu vơ được, mà phải nói bằng con số khoa học. Mình không thể so sánh với những nước mà người ta phải mua tới vài ba chục cent, không thể so sánh như vậy. Nền kinh tế Việt Nam đang thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.

Giá bán điện thấp, thời gian phát điện trong năm có hạn đã khiến doanh nghiệp đầu tư thủy điện nhỏ và vừa lao đao. Tuy nhiên, trên thực tế, không ít doanh nghiệp đầu tư thủy điện nhỏ và vừa bị yêu cầu hạn chế công suất khiến họ càng khó khăn hơn. Không chỉ doanh thu chưa đạt được theo yêu cầu, mà “Sản lượng điện cũng không đạt kế hoạch với lý do hạn chế công suất do đặc thù lưới ở khu vực, ở đây có các nhà máy ở Lào Cai và Hà Giang phải chịu cảnh này, phải hạn chế công suất phát trong giờ cao điểm”, ông Hà Sỹ Dinh, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Phát triển năng lượng Sơn Vũ nói.

Cạnh tranh nửa vời

Việc chính thức vận hành thị trường phát điện cạnh tranh được coi là bước ngoặt lớn trong ngành điện lực Việt Nam. Tuy nhiên, theo lộ trình, thị trường phát điện cạnh tranh được vận hành trước tiên, tới năm 2015. Từ năm 2015 tới năm 2022, thị trường bán buôn điện cạnh tranh mới được vận hành. Phải sau năm 2022, thị trường bán lẻ điện cạnh tranh mới được khởi động. Tức là, một thị trường điện thực sự cạnh tranh và người tiêu dùng thực sự trở thành “thượng đế” như trong những lĩnh vực kinh doanh thuần túy khác chỉ có thể có được sau ít nhất 10 năm nữa, còn các nhà máy thủy điện nhỏ và vừa phải chờ tới giai đoạn 2015 - 2022 để thực sự được tham gia vào thị trường cạnh tranh này. Như vậy, với thị trường điện cạnh tranh nửa vời như hiện nay, các doanh nghiệp kinh doanh thủy điện nhỏ và vừa vẫn chưa thoát khỏi những khó khăn đang trở thành gánh nặng đối với họ.

Dẫu sao, phần lớn các nhà máy thủy điện nhỏ và vừa đặt tại vùng sâu, vùng xa đã góp phần không nhỏ cho việc đưa điện về miền núi, cải tạo cơ sở hạ tầng, tăng cơ hội phát triển kinh tế cho những vùng nghèo khó, đồng thời, bổ sung sản lượng điện không nhỏ cho phần thiếu hụt của lưới điện quốc gia. Trong khi các doanh nghiệp đầu tư phát triển thủy điện nhỏ và vừa vẫn phải chịu không ít khó khăn như các doanh nghiệp khác do ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế chung, họ còn phải gánh thêm nhiều loại phí, như phí thủy lợi, phí dịch vụ rừng. Họ chỉ mong được hưởng một số chính sách ưu đãi nhất định, như hỗ trợ lãi suất, hay ân giảm thuế, để cải thiện phần nào khó khăn…

Minh Thắng