QĐND - "Với Embers of War (Tạm dịch: Than hồng chiến cuộc), P. Lô-gơ-van (Fredrik Logevall) đã viết một cuốn sách thậm chí còn ấn tượng hơn cả Choosing War (Tạm dịch: Lựa chọn chiến tranh) xuất bản trước đó của chính ông để kể về cuộc chiến của người Pháp và Mỹ tại Việt Nam". Giáo sư Sử học A. Brinh-ly (Alan Brinkley) tại Đại học Columbia (Mỹ) đã viết như vậy trong một bài điểm sách đăng trên tờ New York Times. Xin trích giới thiệu với bạn đọc nội dung bài viết.
Tại Hội nghị Casablanca vào tháng 1-1943, Tổng thống Mỹ P. Ru-dơ-ven (Franklin Roosevelt) đã cay đắng nói với con trai mình về chủ nghĩa đế quốc châu Âu: “I-li-ớt (Elliott), đừng bao giờ nghĩ rằng nhờ lòng tham thiển cận của người Pháp, người Anh và người Hà Lan, người Mỹ sẽ thoát chết ở Thái Bình Dương đêm nay”. Trước đó, ông đã nói thẳng với giới báo chí Nhà Trắng rằng: “Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có bất kỳ chủng tộc nào trên trái đất này có quyền là chủ của những người khác… Chúng tôi tin rằng, bất kỳ quốc gia nào, dù nhỏ đến đâu, đều có quyền quyết định cố hữu với vận mệnh quốc gia mình”. Đó chính là vấn đề cốt lõi của Hiến chương Đại Tây Dương năm 1941 mà cả Thủ tướng Anh U.Sớc-sin (W. Churchill) và Tổng thống Mỹ P. Ru-dơ-ven đều đặt bút ký. Hiến chương kêu gọi “quyền của tất cả các dân tộc trong việc lựa chọn chế độ mình muốn sống”.
 |
Trang bìa của Embers of War. Ảnh: Amazon.com
|
Bốn năm sau, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và P. Ru-dơ-ven qua đời, người kế nhiệm lên nắm quyền gần như không biết gì về cách nhìn tương lai thế giới của người tiền nhiệm. Tổng thống H. Tơ-ru-man (Harry Truman) đã bỏ qua những đoạn chống chủ nghĩa thực dân của Hiến chương Đại Tây Dương và ủng hộ các cường quốc tiếp tục theo đuổi chủ nghĩa đế quốc-một quyết định đã giúp chính phủ Pháp khôi phục lại vị thế của mình, bao gồm cả thuộc địa bị mất-Việt Nam. Sau này, nhà ngoại giao G. Ken-nan (George F. Kennan) đã phải gọi quyết định này là “quyết định thảm họa nhất của Mỹ trong suốt lịch sử 200 năm của đất nước”.
P. Lô-gơ-van chính là tác giả của một cuốn sách xuất sắc có tên Choosing War, xuất bản năm 1999, viết về sự leo thang của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng với Embers of War, ông đã viết một cuốn sách thậm chí còn ấn tượng hơn, kể về cuộc chiến của người Pháp tại Việt Nam và sự nhen nhóm can dự của Mỹ từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai. P. Lô-gơ-van, bản thân là Giáo sư Sử học tại Đại học Cornell, đã viết cuốn sách này dựa trên những tài liệu nghiên cứu trong nhiều năm của nhiều học giả và của chính ông. Ông đã vẽ nên một bức tranh có sức lôi cuốn mạnh mẽ về cuộc chiến thảm họa và vô ích của người Pháp, cuộc chiến mà người Mỹ hầu như đã không rút ra được bài học nào khi họ tăng dần sự can dự của mình vào Việt Nam.
P. Lô-gơ-van bắt đầu cuốn sách bằng việc kể về những nỗ lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã dành trọn cả cuộc đời đấu tranh nhằm mang lại độc lập cho đất nước mình. Vào năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cho một cuộc chiến đánh đuổi người Pháp. Trong khi đó, Pháp quyết biến Việt Nam trở lại thành thuộc địa như trước với sự giúp đỡ tài chính của Mỹ. Người Pháp nhất quyết cho rằng, nếu mất Việt Nam, nền kinh tế của Pháp sẽ sụp đổ. Song, thật ra cái họ muốn không chỉ là tiền bạc mà là bảo vệ những gì được xem là “sự vĩ đại của một nước Pháp trường tồn”.
Cuộc chiến tranh của người Pháp dai dẳng, kéo dài gần một thập kỷ và mang một hình hài xấu xí. Cuộc chiến lên đến cao trào vào năm 1954 tại Điện Biên Phủ, nơi mà người Pháp tin rằng họ có thể “chịu được bất kỳ cuộc tấn công nào của Việt Minh”. Người Pháp đã đánh giá thấp sức mạnh của Việt Minh và phải nếm mùi thất bại. 110.000 quân Pháp bị tiêu diệt tại Điện Biên Phủ-gấp đôi số lính Mỹ tử trận trong chiến tranh Việt Nam lần hai. Đến năm 1955, người Pháp rút khỏi Việt Nam, từ bỏ những gì họ đã từng xem là “viên ngọc quý của đế chế”.
Không chỉ trong miêu tả chiến tranh, P. Lô-gơ-van còn rất tài tình trong việc cắt nghĩa chính sách ngoại giao về Việt Nam trong những năm 1950. Tại Hội nghị Giơ-ne-vơ (Geneva) năm 1954, đã có sự bất đồng nội bộ về vai trò của Mỹ khi Pháp rút đi. Ngoại trưởng Mỹ G. Đa-lét (John Foster Dulles) tin rằng, Mỹ nên thế chân Pháp và tiếp tục cuộc chiến. Nhưng Tổng thống Ai-xen-hao (D. Eisenhower), người hiểu rõ thực tế chiến tranh là thế nào, đã không điều quân đến Việt Nam. Thay vào đó, ông đồng ý với những thành viên khác tại Hội nghị Giơ-ne-vơ là chia cắt Việt Nam. Ai-xen-hao lâu nay vẫn được “tôn sùng” vì không gửi quân tham chiến tại Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả P. Lô-gơ-van đã chỉ rõ rằng, còn lâu Ai-xen-hao mới trở thành người kiến tạo hòa bình. Ai-xen-hao không muốn đưa quân Mỹ vào Việt Nam, song lại quyết không để chính quyền miền Nam Việt Nam sụp đổ. Vào thời điểm Tổng thống Ai-xen-hao rời nhiệm sở, đã có khoảng 1000 cố vấn quân sự người Mỹ ở miền Nam Việt Nam và thêm nhiều người nữa được cử đến sau này.
B. Phôn (Bernard Fall)-một sử gia nổi tiếng-đã từng đưa ra nhận xét về sự vô nghĩa của hai cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Theo ông, người Mỹ “có giấc mơ khác nhưng lại đi theo vết xe đổ của người Pháp”. Năm 1959, không có nhiều người ở Oa-sinh-tơn tưởng tượng rằng sẽ phạm phải những sai lầm giống người Pháp. Đã có khoảng thời gian người Mỹ tin rằng họ có thể ổn định được tình hình của “Nam Việt Nam mới”. Nhưng chỉ một vài năm sau đó, họ dần ý thức được đang sa vào vũng lầy của chính mình.
LÂM TOÀN (biên dịch)