QĐND - 68 năm qua, kể từ ngày Bác Hồ kính yêu đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), trong đó có 30 năm kháng chiến, lại phải mất nhiều năm hàn gắn vết thương chiến tranh, nhưng kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào với những mốc son đã đi vào lịch sử.

Diệt giặc đói

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hầu hết ruộng đất ở Việt Nam đều nằm trong tay địa chủ, thực dân. Hệ thống đê được hình thành trong lịch sử, nhưng do không được thường xuyên tu bổ, nên cứ cách vài ba năm lại vỡ đê một lần, người dân thường xuyên bị đói. Đặc biệt trong năm 1945, nạn đói hoành hành làm gần 2 triệu người Việt Nam bị chết.

Với cương vị là người đứng đầu Chính phủ Cách mạng lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đói nghèo cũng là một thứ giặc nguy hiểm. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời diễn ra sau một ngày đọc Tuyên ngôn Độc lập (ngày 3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó “chống giặc đói” được Hồ Chủ tịch đặt lên hàng đầu.

Khai thác dầu khí, niềm tự hào của công nghiệp Việt Nam.

 

Để tiêu diệt tận gốc “giặc đói”, biện pháp cơ bản lâu dài là phát triển sản xuất. Nhưng trong khi chờ đợi kết quả của sản xuất, để khẩn cấp cứu đói cho dân, trên cơ sở phát huy truyền thống “nhiễu điều phủ lấy giá gương” của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân với tinh thần “nhường cơm, sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách” tự nguyện thực hành tiết kiệm, xây dựng các “hũ gạo cứu đói” giúp đỡ những gia đình thiếu ăn trầm trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã phát động phong trào “tăng gia sản xuất”. Chính phủ ban hành nhiều chính sách khuyến nông… Nhờ đó, chỉ sau một thời gian ngắn, giặc đói đã bị đánh lui. Đây thực sự là một kỳ tích của chính quyền cách mạng.

“Tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc”

Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc (năm 1954), Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương và chính sách kinh tế, tài chính tích cực, trong đó nổi bật nhất là cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, 810.000ha đất nông nghiệp của địa chủ được tịch thu và chia cho nông dân nghèo. Sau 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957), diện tích gieo trồng tăng 23,5%, năng suất lúa tăng 30,8%, sản lượng lương thực tăng 57%, lương thực bình quân đầu người tăng 43,6%, đàn trâu tăng 44,2%, đàn bò tăng 39%, đàn lợn tăng 20% so với năm 1939 (là mức cao nhất dưới thời Pháp thống trị).

Đến năm 1965, có 88,8% số hộ nông dân vào hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Nhiều khu công nghiệp phát triển và hình thành ở Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định, Vinh, Hồng Quảng…

Đến năm 1964, miền Bắc hoàn thành những mục tiêu cơ bản của kế hoạch 5 năm (1961-1965). Đánh giá những chuyển biến của miền Bắc, tại Hội nghị Chính trị đặc biệt (27-3-1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới".

Đổi mới và hội nhập kinh tế

Sau ngày thống nhất đất nước (năm 1975), Việt Nam đứng trước một cơ hội mới để xây dựng và phát triển kinh tế. Song, do xuất phát điểm của nền kinh tế quá thấp, hậu quả của chiến tranh nặng nề, cùng với những hạn chế trong việc tận dụng thời cơ, hạn chế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp và những vấp váp sai lầm trong các chính sách kinh tế, nên từ năm 1976 đến 1985, thu nhập quốc dân tăng rất thấp, có năm còn bị giảm.

Đứng trước tình hình trên, Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới, phát triển sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó từng bước hội nhập kinh tế quốc tế. Đổi mới và mở cửa đã tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao. Bình quân giai đoạn 1986-2005 đạt 6,76%, cao gần gấp đôi tốc độ tăng trưởng thời kỳ 1977-1985. GDP năm 2005 gấp khoảng 14 lần năm 1955, gấp hơn 3,7 lần năm 1985 và gấp gần 3 lần năm 1990. Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới.

Tái cơ cấu kinh tế

Sau 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, nhưng lại đứng trước nguy cơ phát triển thiếu bền vững do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và những yếu kém, lạc hậu của cơ cấu kinh tế, về phân bố nguồn lực…

Trước thực trạng nói trên, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, trong đó nhấn mạnh: “Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược". Tại Hội nghị lần thứ ba (tháng 10-2011), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định phải tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Trong đó, tập trung vào 3 lĩnh vực quan trọng nhất là tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước.

Sau gần hai năm triển khai tái cấu trúc, kinh tế Việt Nam đã có những tín hiệu đáng mừng. Đặc biệt là trong 8 tháng đầu năm 2013, lạm phát đã được kiềm chế; lãi suất giảm; tăng trưởng tín dụng có chuyển biến tốt; khó khăn trong sản xuất, kinh doanh từng bước được tháo gỡ; sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục có những bước cải thiện; nông nghiệp tuy chịu ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ nhưng vẫn được duy trì tương đối ổn định; lĩnh vực dịch vụ phát triển khá; xuất khẩu duy trì đà tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra; tỷ lệ nhập siêu thấp; giải ngân vốn ODA đạt khá, vốn FDI đăng ký và thực hiện cao hơn cùng kỳ...

Những kết quả bước đầu của quá trình tái cơ cấu kinh tế đã cho chúng ta niềm tin, vững bước trên con đường đã chọn.

Bài và ảnh: ĐỖ PHÚ THỌ