QĐND - Nằm trên tuyến giao thông biển chiến lược nối Biển Đông và Ấn Độ Dương, giúp vận chuyển hàng hóa từ châu Âu, châu Phi, Nam Á, Trung Đông đi Đông Nam Á và Đông Á, eo biển Ma-lắc-ca giống như “yết hầu” của thương mại quốc tế. Vì vậy, không lạ gì khi an ninh của eo biển này thu hút sự quan tâm và can dự của nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới, đặc biệt là các nước lớn.
Vị trí địa chiến lược quan trọng
Eo biển Ma-lắc-ca có chiều dài 550 dặm (gần 900km), nằm giữa bán đảo Ma-lai-xi-a và đảo Xu-ma-tra của In-đô-nê-xi-a. Đây là một trong những tuyến đường biển có tầm quan trọng chiến lược không chỉ đối với các quốc gia ven biển mà còn đối với cộng đồng quốc tế. An ninh năng lượng và thương mại giữa các nền kinh tế ở Đông Á và Đông Nam Á phụ thuộc rất nhiều vào an ninh hàng hải của tuyến đường qua eo biển Ma-lắc-ca và Biển Đông.
 |
Hải quân In-đô-nê-xi-a trong cuộc tập trận gần eo biển Ma-lắc-ca. Ảnh: nbcnews.com
|
Hằng năm, có tới 1/3 lượng hàng vận chuyển trên toàn thế giới phải đi qua nút cổ chai này. Chỉ riêng dầu thô, mỗi ngày có hơn 10 triệu thùng dầu chở từ Trung Đông tới Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản qua eo biển Ma-lắc-ca. Ước tính, 70-80% lượng dầu thô nhập vào Nhật Bản và Trung Quốc phải qua tuyến đường biển này. Đây cũng là nơi các con tàu vận chuyển 1/3 khối lượng dầu thô của thế giới. Bên cạnh nhiên liệu, các nền kinh tế ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc còn xuất khẩu hàng dệt may, quần áo, đồ điện tử, xe hơi và thực phẩm qua eo biển Ma-lắc-ca. Chính vì thế, các cường quốc trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đều xem an ninh tại eo biển Ma-lắc-ca là vấn đề mang tính chiến lược.
Tuy nhiên, eo biển Ma-lắc-ca cũng là địa bàn hoạt động ưa thích của cướp biển. Từ cửa rộng 400km ở phía Bắc, eo biển hẹp dần và chỉ còn rộng 16km ở gần cửa phía Nam. Những đoạn biển hẹp, hàng trăm hòn đảo nhỏ đầy cây ngập mặn không có người ở đã biến vùng biển này thành nơi trú ẩn lý tưởng của những tên cướp biển và các nhóm khủng bố, nổi dậy. Theo thống kê, có thời kỳ, eo biển Ma-lắc-ca chiếm tới 1/3 các vụ cướp biển trên thế giới. Riêng trong 4 tháng đầu năm 2014, Cục Hàng hải quốc tế (IMB) đã ghi nhận 72 vụ tấn công tại eo biển này.
Quyền quản lý an ninh
Eo biển Ma-lắc-ca chủ yếu do 3 nước In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po kiểm soát. Các nước không thuộc vùng duyên hải chỉ có thể tham gia quản lý một cách gián tiếp thông qua hỗ trợ tài chính, công nghệ và phương tiện vận tải. Do đó, nhiệm vụ chống cướp biển của cảnh sát biển các nước xung quanh eo biển này là khá nặng nề.
Đầu năm 1992, để ngăn chặn hoạt động cướp biển ở eo biển Ma-lắc-ca và tuyến đường biển phía Tây Nam Xin-ga-po, 3 nước In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po đã đàm phán thúc đẩy hoạt động chống cướp biển, xây dựng trung tâm chống cướp biển ở Cu-a-la Lăm-pơ. Tháng 4-2007, 3 nước bắt đầu phối hợp tuần tra chung, trao đổi tình hình kế hoạch tuần tra, chỉ huy, trình tự kiểm soát mỗi bên và vị trí tàu tuần tra. Ngày 14-10-2009, 3 nước và Trung tâm Chống cướp biển đã ký một hiệp định kỹ thuật chung, xây dựng “Quỹ ủy thác eo biển Ma-lắc-ca của Tổ chức Biển quốc tế", nhằm hỗ trợ hợp tác giữa các bên có lợi ích liên quan ở eo biển, bảo vệ môi trường và an ninh hàng hải eo biển Ma-lắc-ca.
Sự tham dự của các nước lớn
Với vị trí địa chiến lược quan trọng, việc kiểm soát eo biển Ma-lắc-ca xưa nay vẫn luôn có bóng đen can dự của các nước lớn. Chiến lược xoay trục sang châu Á-Thái Bình Dương khiến Mỹ không thể bỏ qua một khu vực “nhạy cảm” như eo biển Ma-lắc-ca. Theo các nhà phân tích, mục đích của Mỹ khi vội vã can dự vào công việc an ninh của eo biển này là nhằm tăng cường ảnh hưởng và sự góp mặt về quân sự, giành lợi ích chiến lược và vai trò chủ đạo nhiều hơn ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng như Đông Nam Á.
Còn đối với Nhật Bản và Trung Quốc, nguyên nhân quan trọng khiến các nước này quan tâm đến an ninh eo biển Ma-lắc-ca là những tính toán về an ninh năng lượng và kinh tế. Là một quốc đảo thiếu tài nguyên, Nhật Bản hiểu rất rõ tầm quan trọng của vận tải đường biển đối với sự phát triển quốc gia. Ngoài ra, lý do Nhật Bản quan tâm đến eo biển Ma-lắc-ca còn xuất phát từ ý đồ kinh tế và chính trị nhằm mở rộng ảnh hưởng đến khu vực Đông Nam Á và châu Á-Thái Bình Dương. Trong khi đó, bảo vệ an ninh các tuyến đường biển quốc tế quan trọng trong đó có eo biển Ma-lắc-ca được Trung Quốc xem là nhu cầu tất yếu. Các chuyên gia dự báo, đến năm 2020, lượng dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc tối thiểu là 450 triệu tấn, sự phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ bên ngoài có thể lên tới 60%. 80% lượng dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc phải vận chuyển thông qua eo biển Ma-lắc-ca. Do đó, duy trì tuyến đường vận chuyển dầu mỏ, bảo vệ an ninh eo biển này có ý nghĩa chiến lược quan trọng thực tế đối với Trung Quốc.
Những năm gần đây, Ấn Độ cũng tỏ ra rất hào hứng với việc tham gia công việc an ninh ở eo biển này, nguyên nhân chủ yếu là mong muốn đi trước trong cuộc tranh giành quyền kiểm soát eo biển của các quốc gia bên ngoài khu vực. Do đó, Ấn Độ đã đơn phương chuẩn bị việc thúc đẩy hợp tác nhiều mặt, nhiều cấp độ với các nước ven bờ eo biển.
Chính sự quan tâm của các nước lớn trong và ngoài khu vực đối với an ninh eo biển Ma-lắc-ca đã làm cho việc xây dựng cơ chế an ninh eo biển không thể thoát khỏi cuộc đọ sức giữa các nước lớn. Điều này cũng góp phần gây thêm nhiều hệ lụy phức tạp đối với vấn đề bảo đảm an ninh eo biển Ma-lắc-ca nói riêng và an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói chung.
NGỌC HÂN