Kỳ 2: Chứng cứ quốc tế và trong nước
QĐND - Nhiều tư liệu quốc tế từ thế kỷ 19 trở về trước ghi rõ Paracels (Hoàng Sa) thuộc chủ quyền của An Nam hay Việt Nam.
 |
Phòng trưng bày hình ảnh, tư liệu lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa phục vụ khách tham quan của TS Nguyễn Nhã. Ảnh do tác giả cung cấp
|
Có thể nêu ra đây một số tài liệu chính như: Nhật ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) in lại năm 1843, ghi chú Paracels thuộc về Đại quốc An Nam. Le Mémoire sur Cochinchine của Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) viết vào các năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) khẳng định, năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels. Thế giới, lịch sử và mô tả về tất cả các dân tộc cùng tôn giáo, cách cư xử và tập quán của họ (Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes) của Giám mục Taberd xuất bản năm 1833 cho rằng, Hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên đảo Hoàng Sa năm 1816. Tạp chí Hiệp hội châu Á Bengal quyển VI (The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol VI) đăng bài của Giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels. Tạp chí Hiệp hội Địa lý Luân Đôn (The Journal of Geographycal Society of London) năm 1849 đăng bài của GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels…
Ngoài ra, gần đây người ta còn phát hiện gần trăm đầu sách địa lý, bản đồ ghi rõ Paracels thuộc “Vương quốc An Nam”, được viết bằng các thứ tiếng I-ta-li-a, Pháp, Đức, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan...
An Nam Đại quốc họa đồ dài 80,5cm, rộng 44cm của Giám mục Taberd xuất bản năm 1838 khẳng định: “Paracels seu Cát Vàng” (seu, trong tiếng La-tinh có nghĩa “hoặc” hay “là”), dịch nghĩa: "Paracels hay là Cát Vàng"-tức Hoàng Sa- nằm trong cuốn từ điển ghi rõ ở tọa độ địa lý hiện nay và nằm trong vùng biển của Việt Nam. Người ta còn thấy rất nhiều bản đồ do phương Tây vẽ từ thế kỷ 18, có ghi chú rõ Paracels thuộc Vương quốc An Nam hay Đàng Trong (Cochinchine).
Chưa hề có nước nào như ở Việt Nam, chính sử, sách điển chế, sách địa chí, nhất là châu bản, văn bản nhà nước đều ghi rõ việc xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Trước hết, Đại Việt sử ký tục biên do các sử thần thời Lê-Trịnh biên soạn theo lệnh của Trịnh Sâm năm 1775, có đoạn viết: “Tám người thuộc đội Hoàng Sa xã An Vĩnh huyện Bình Sơn phủ Quảng Ngãi đi thuyền nhỏ vào bãi Hoàng Sa giữa hải đảo tìm thấy hóa vật, bị gió dạt vào cửa sông Thanh Lan huyện Văn Xương phủ Lô Châu (nước Thanh). Quan địa phương đó xét hỏi đúng sự thực rồi đưa về nguyên quán. Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng đế ta, sai Cai bạ Thuận Hóa là Thức lượng hầu viết thư đáp lại nước Thanh. Ngoài biển xã An Vĩnh có nhiều đảo lớn gồm hơn 130 đảo, cách nhau một ngày đi thuyền, hoặc vài canh giờ. Trên đảo có chỗ có suối nước ngọt. Ở bãi cát lại có ốc vằn, tục gọi là ốc tai voi, ốc xà cừ, ốc hương và hải trùng, hải sâm, đồi mồi... Đặt đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào đội ấy, cắt lượt nhau đi thuyền đến đảo mò tìm sản vật. Mỗi năm cứ tháng ba ra đi, mang lương ăn sáu tháng, đi thuyền ra biển ba ngày ba đêm mới đến đảo. Ở đấy tha hồ tìm nhặt, được sản vật gì, bao nhiêu, đến kì tháng tám thuyền cửa Eo, đem đến Phú Xuân nộp. Trong khoảng ấy cũng có người mò được tiền bạc, chì, thiếc, nồi đồng, súng, khí giới, ngà voi, bát bằng đá…”.
… “Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được...
“Hoàng Sa chính gần phủ Liêm Châu, đảo Hải Nam, người đi thuyền có lúc gặp thuyền đánh cá Bắc quốc, hỏi nhau ở trong biển. Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương, Quỳnh Châu, gởi cho Thuận Hóa nói rằng: Năm Kiền Long thứ 18 có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh, đội Cát Liềm, huyện Chương Nghĩa, phủ Quảng Ngãi nước An Nam ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có tám tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để hai tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, dạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu [chép nhầm, chính là Nguyễn Phúc Khoát] sai cai bạ Thuận Hóa là Thức lượng hầu làm thư trả lời” (quyển 2, từ tờ 82b-85a).
Sang triều Nguyễn từ năm 1802 đến 1909, năm bắt đầu bị tranh chấp, có rất nhiều tài liệu chính sử, sách điển chế, sách địa lý minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như phần tiền biên quyển 10, soạn năm 1821 khắc in năm 1844 của Quốc sử quán triều Nguyễn tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội quân Hoàng Sa và đội Bắc Hải. Hoặc Đại Nam thực lục chính biên (đệ nhất kỷ khắc in năm 1848, đệ nhị kỷ khắc in xong năm 1864, đệ tam kỷ khắc in xong năm 1879) của Quốc sử quán triều Nguyễn có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo này. -Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (1851) có đoạn văn đề cập đến việc dựng miếu ở Hoàng Sa trong quyển 207, và đoạn văn trong bộ sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ quyển 221 của Nội các triều Nguyễn có chép: “Bộ Công tâu rằng: Hoàng Sa ngoài biển rất là hiểm yếu. Hàng năm cần phải đi khám dò khắp chỗ thuộc đường bể. Lại từ năm nay trở về sau, mỗi khi hạ tuần tháng giêng, chiếu theo lệ ấy mà làm. Trong quyển III Quốc triều chính biên toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn, đời vua Minh Mạng, có ba đoạn văn liên quan đến việc xác lập chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa. Ngoài ra trong các bản đồ của Việt Nam như Đại Nam thống nhất toàn đồ có vẽ Hoàng Sa và Vạn lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam...".
Phù hợp với pháp lý quốc tế vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, nhất là năm 1909, Trung Quốc bắt đầu tranh chấp, phải là chiếm hữu thật sự mang tính nhà nước, chính là Châu bản triều Nguyễn.
Tài liệu rất quý giá là Châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), là các văn bản của triều đình nhà Nguyễn hiện đang được lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, và các cơ quan khác hay những Dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc… Chẳng hạn như có đoạn cho biết trước có phái thủy sư, giám thành, binh dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định đi Hoàng Sa đo đạc, cắm mốc, vẽ họa đồ, trừ bọn Phạm Văn Biện gồm bốn tên can tội đã có chỉ phạt trượng, còn binh dân đi theo lặn lội biển cả cực khổ, thưởng mỗi tên binh đinh một tháng lương, dân phu mỗi tên 2 quan tiền. Cùng đó còn có Phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836 ) trong Tập châu bản Minh Mạng 55 trang 336, ghi lời châu phê của vua Minh Mạng: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4,5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ: “Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), họ tên cai đội thủy quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu”. Vua cũng phê rằng “thuyền đi đâu, phải cắm cột mốc đến đó để lưu dấu. Phúc tấu cũng còn ghi chánh đội trưởng Phạm Hữu Nhật được phái từ Thuận An vào Quảng Ngãi để đi công tác Hoàng Sa”.
Tại Huế cũng mới phát hiện văn bản của Phạm Quỳnh, Tổng lý Ngự tiền văn phòng Nội các thời Minh Mạng, tâu xin vua Bảo Đại phê chuẩn thưởng tặng cho người có công phòng thủ Hoàng Sa, thể hiện sự thực thi chủ quyền liên tục tại Hoàng Sa suốt triều Nguyễn từ vua đầu tiên Gia Long đến vua cuối cùng Bảo Đại. Đây là tờ Châu bản thời Bảo Đại, đánh máy bằng chữ quốc ngữ, với lời phê: “Chuẩn y” và chữ ký tắt BĐ (Bảo Đại) đều bằng bút chì màu đỏ, khổ giấy cỡ 21,5x31,0cm. (tờ Tâu số 664 ngày 27 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 13).
Gần đây nhất, TS Trần Đức Anh Sơn trong công trình khoa học Font tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với huyện đảo Hoàng Sa-TP Đà Nẵng vừa công bố một số phát hiện mới của ông Trần Văn Quyền, giảng viên Khoa Xã hội, Trường Đại học Phú Xuân Huế đã phát hiện quyển sách Khải đồng thuyết ước, sách giáo khoa dạy trẻ học vỡ lòng bằng chữ Hán, khắc in thời vua Tự Đức thứ 6, năm 1853, trang15-16 có vẽ Hoàng Sa.
Tiến sĩ sử học HÃN NGUYÊN NGUYỄN NHÃ
Kỳ 1: Sử sách Trung Quốc nói gì?