Ngành thủy sản hiện đang phải đối mặt với những thách thức ảnh hưởng đến tính bền vững như suy kiệt nguồn lợi, suy giảm đa dạng sinh học, ô nhiễm và suy thoái môi trường, đời sống ngư dân bấp bênh và khoảng cách giàu-nghèo tăng... Tại Hội thảo về phát triển bền vững ngành thủy sản, một số nhà nghiên cứu đã nhận định, sự suy giảm đa dạng sinh học biển Việt Nam đã đến mức báo động do cấu trúc hệ sinh thái biển không bền vững.
Tính hai mặt của sự phát triển
Trong lĩnh vực khai thác thủy sản, số lượng tàu thuyền liên tục tăng, trong 15 năm gần đây, tăng từ gần 43.940 chiếc và sản lượng khai thác 730.420 tấn lên 90.880 chiếc và sản lượng khai thác 1.809.700 tấn. Kết quả này góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế ngành nhưng cũng làm suy giảm nguồn lợi thủy sản một cách nhanh chóng. Bởi vì 80% số tàu thuyền hoạt động ở vùng ven bờ, những ngư dân nghèo có tham gia đánh bắt lại sử dụng các loại lưới cỡ mắt nhỏ, thuốc nổ, xung điện, thuốc độc, lưới rê... không chỉ tận diệt nguồn lợi thủy sản mà còn gây ô nhiễm môi trường. Thêm vào đó, nguồn lợi và đa dạng sinh học biển còn bị ảnh hưởng bởi các hoạt động nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên biển và phá rừng ngập mặn để lấy đất NTTS, du lịch, giao thông, công nghiệp.
Tại Hội thảo về phát triển bền vững ngành thủy sản, một số nhà nghiên cứu đã nhận định, sự suy giảm đa dạng sinh học biển Việt Nam đã đến mức báo động do cấu trúc hệ sinh thái biển không bền vững. Chính các tai biến tự nhiên, hoạt động của con người, các yếu tố gây ô nhiễm môi trường đã và đang tạo ra những áp lực đáng kể làm suy thoái môi trường biển nước ta. Hậu quả dẫn đến sự suy thoái các hệ sinh thái biển, nguồn lợi sinh vật và đa dạng sinh học. Nhiều câu hỏi đặt ra, cứ theo đà này thì thế hệ con cháu chúng ta sẽ lấy đâu ra cá để ăn?!
Việc chuyển dịch đất sản xuất tăng nhanh về diện tích và sản lượng NTTS trong 5 năm qua, tăng từ khoảng 750.000ha và 720.000 tấn một năm lên gần 1 triệu héc-ta và 1,4 triệu tấn một năm; trong đó chủ yếu diễn ra ở các vùng ven biển và Đồng bằng sông Cửu Long với hai đối tượng chính là tôm sú và cá tra. Bên cạnh mặt tích cực là tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế, việc làm và thu nhập, giảm nghèo... thì phát triển NTTS, đặc biệt là nuôi tôm cũng gây ra những tác động làm ảnh hưởng đến môi trường kinh tế và xã hội.
Theo Quỹ Quốc tế và Bảo vệ thiên nhiên (WWF), việc phát triển NTTS, nhất là nuôi tôm làm suy giảm đáng kể diện tích rừng ngập mặn, các hệ sinh thái ven biển, làm đất nhiễm mặn khó phục hồi... Tỉnh Cà Mau-địa phương có diện tích và sản lượng tôm nuôi lớn nhất nước, từ vài trăm héc-ta nuôi tôm năm 1983 đến nay đã tăng lên gần 300.000ha, trong đó có nguồn gốc chủ yếu từ rừng ngập mặn. Lượng nước thải từ các ao nuôi tôm tăng từ gần 100 triệu mét khối năm 1997 lên gần 250 triệu mét khối năm 2003, khiến các chỉ tiêu quan trọng của chất lượng nước đều không đạt cho NTTS, đe dọa nghề nuôi tôm. Nhìn chung nuôi tôm mang lại thành công trong vài năm đầu nhưng tính bền vững của nghề này đang bị đe dọa, đặc biệt khi người nuôi cố gắng tăng mức độ thâm canh thì khả năng gây ô nhiễm môi trường đất và nước cũng rất lớn. Thời gian gần đây, dịch bệnh dẫn đến thất bại trong nuôi tôm là khá phổ biến. Đại diện của WWF đã cảnh báo, Việt Nam tránh không nên đi theo con đường của một nước trong vùng, mở rộng nuôi tôm mà thiếu cân nhắc về môi trường, dẫn đến sự sụp đổ của ngành sản xuất này và làm mất nguồn sinh kế của hàng trăm nghìn nông dân.
Làm gì để phát triển bền vững?
Thứ trưởng Bộ Thủy sản Nguyễn Việt Thắng cho rằng, không phải cứ nuôi trồng hoặc đánh bắt thủy sản với quy mô công nghiệp là không bền vững. Không thực hiện phát triển bền vững với đầy đủ ý nghĩa của nó thì mới dẫn đến sự mất bền vững, bấp bênh và thất bại, trong khi công nghiệp hóa và hiện đại hóa nghề cá là xu hướng hông thể đảo ngược. Do đó trong quá trình phát triển cần cân nhắc, tính toán kỹ những yếu tố phát triển bền vững. Cần tổng kết rút kinh nghiệm từ những mô hình phát triển bền vững của khu vực và trong nước, dựa trên những tiêu chí phát triển của FAO để nhanh chóng nhân rộng ra cả nước trong năm 2007.
Một số nhà khoa học khác cũng đề xuất cách tiếp cận hệ thống sinh thái nhân văn xây dựng chỉ thị quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên vùng biển… Để làm được điều đó cần xây dựng bộ chỉ thị chủ yếu phát triển bền vững tài nguyên thiên nhiên vùng biển, dựa vào sự tác động của các hoạt động kinh tế-xã hội chính như NTTS, khai thác hải sản, du lịch, mở rộng và xây dựng cảng biển, vận tải biển, sử dụng hóa chất trong nông nghiệp lên các yếu tố đặc trưng cơ bản của hệ thống tài nguyên thiên nhiên như rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, bãi triều, đáy biển nông ven bờ... Một bộ chỉ thị được xây dựng bằng phương pháp tiếp cận phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững ở vùng bờ và biển sẽ là công cụ hữu hiệu phục vụ quản lý và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên biển.
Từ lâu ngành thủy sản đã áp dụng mô hình đồng quản lý, trong đó có quản lý cộng đồng ở một số nơi như xã Phù Long (Cát Bà-Hải Phòng), Vạn Ninh-Khánh Hòa, Mỹ Xuyên (Sóc Trăng)... mang lại hiệu quả trong khôi phục và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, ổn định thu nhập cho ngư dân nghèo. Thiết nghĩ, ngành thủy sản cần đẩy mạnh cách tiếp cận này như đã mang lại kết quả tốt ở Thái Lan và Lào trong việc bảo vệ tốt hơn môi trường, nguồn lợi, kinh tế xã hội, tăng cường phối hợp giữa các bên liên quan vào quản lý và sự tham gia của ngư dân vào quá trình quản lý, giải quyết mâu thuẫn giữa các bên liên quan về sử dụng nguồn lợi, giảm chi phí quản lý...
Thông thường những mô hình đồng quản lý gắn với các hình thức sản xuất thân thiện với môi trường cho hiệu quả kinh tế cao, chi phí thấp, thị trường tiêu thụ ổn định. Thạc sĩ Trần Ngọc Cường, cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản-Bộ Thủy sản cũng cho rằng nên áp dụng tiếp cận này ở cấp cơ sở do vai trò của cộng đồng-người dân trực tiếp sử dụng và quản lý tài nguyên-ngày càng được đề cao. Vì vậy, việc giao tài nguyên cho cộng đồng quản lý phải gắn trách nhiệm và nghĩa vụ theo luật định và cộng đồng phải được hưởng lợi đầy đủ từ nguồn tài nguyên này.
Tiến sĩ Đặng Văn Thi, Viện Nghiên cứu Hải sản đưa ra cách tiếp cận dựa vào hệ sinh thái đánh giá tổng quan thực trạng và sự thay đổi bên trong hệ sinh thái và nguồn lợi hải sản để làm căn cứ cho việc ra quyết định quản lý nghề cá. Tổng quan này được xây dựng dựa trên các chỉ số phản ánh các khía cạnh riêng của hệ thống như từng đàn cá riêng biệt, phức hệ đa loài, môi trường sống, chức năng hệ sinh thái và nguồn lợi, cùng với thông tin về tổng quan nghề cá cung cấp thông tin về áp lực lên hệ sinh thái và nguồn lợi. Tuy nhiên, để xây dựng tổng quan này cần tăng cường công tác thống kê chuyên ngành thủy sản hướng vào việc đánh giá nguồn lợi và nghề cá hằng năm.
Thực tiễn cho thấy việc áp dụng thành công các cách tiếp cận quản lý liên quan đến phát triển bền vững nghề cá đòi hỏi phân tích bối cảnh thực tế hết sức linh hoạt; có cách tiếp cận từ cơ sở cùng với sự tham gia của những người được hưởng lợi về tài nguyên thiên nhiên; sự tham gia liên ngành, đặc biệt là người dân địa phương.
Phạm Đoàn Việt Anh