QĐND - Theo Tổng cục Thống kê, tính tổng cộng 10 tháng đầu năm 2012, cả nước có hơn 41.000 doanh nghiệp dừng hoạt động, giải thể và hơn 56.000 doanh nghiệp thành lập mới. Con số này gần bằng một nửa con số các doanh nghiệp đóng cửa và phá sản kể từ năm 1986 tới nay. Điều này đã phản ánh thực trạng khó khăn của doanh nghiệp hiện nay. Vậy lúc này cần phải làm gì để hỗ trợ doanh nghiệp? 

Nhiều sản phẩm của doanh nghiệp bày bán tại siêu thị Big C Thăng Long ít khách mua. Ảnh: Trọng Hải

Trợ lực từ "Nghị quyết 13"

Ngày 10-5-2012, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP về tập trung tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh gắn với hỗ trợ phát triển thị trường, với 3 đột phá sau:

Thứ nhất, giảm gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp, với các nội dung: Gia hạn 6 tháng thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của quý II năm 2012 đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, sử dụng nhiều lao động đang thực hiện nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ trong một số lĩnh vực sản xuất, gia công, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử, xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội;  gia hạn 9 tháng thời hạn nộp đối với thuế thu nhập doanh nghiệp từ năm 2011 trở về trước mà chưa nộp vào ngân sách nhà nước; miễn thuế môn bài năm 2012 đối với hộ đánh bắt hải sản và hộ sản xuất muối; gia hạn tối đa 12 tháng thời hạn nộp tiền sử dụng đất đối với các chủ đầu tư dự án có khó khăn về tài chính; giảm 50% tiền thuê đất phải nộp của năm 2012 đối với một số tổ chức kinh tế cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ đang được Nhà nước cho thuê đất; miễn thuế khoán giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2012 đối với cá nhân, hộ kinh doanh nhà trọ, phòng trọ cho thuê.

Thứ hai, giảm gánh nặng lãi suất và cơ cấu lại nợ cho doanh nghiệp, với các nội dung: Tiếp tục hạ mặt bằng lãi suất cho vay phù hợp với diễn biến lạm phát; ưu tiên đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn; doanh nghiệp vừa và nhỏ; doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; thực hiện các biện pháp cơ cấu lại nợ (thời hạn trả nợ, lãi suất, cho vay mới trả nợ cũ,…) và các giải pháp khác cần thiết, phù hợp với từng loại hình, lĩnh vực sản xuất kinh doanh tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay được vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, nhất là đối với những doanh nghiệp có triển vọng phát triển, có sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường, nhưng đang gặp khó khăn về tài chính; kiên quyết xử lý các ngân hàng yếu kém, hoạt động kém hiệu quả bằng các biện pháp phù hợp nhưng phải bảo đảm đúng pháp luật, ổn định hệ thống và quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân gửi tiền và sử dụng dịch vụ ngân hàng.

Thứ ba, giảm gánh nặng thể chế và tăng cường xúc tiến đầu tư, thương mại cho doanh nghiệp, với yêu cầu: Xóa bỏ các rào cản đầu tư bất hợp lý, phấn đấu giảm 10% - 15% chi phí tuân thủ thủ tục hành chính thuế, hải quan cho cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp nhờ thuận lợi hóa thủ tục về thuế và hải quan, rút ngắn thời gian thông quan, tăng cường công tác khai thuế điện tử qua mạng, đẩy mạnh triển khai nộp thuế qua hệ thống ngân hàng, tự động hóa quy trình tiếp nhận giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính thuế và hải quan; chủ động tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch, dịch vụ một cách chuyên nghiệp, hiệu quả; đồng thời, chủ trương sớm ký các hiệp định thương mại với các đối tác, mở rộng thị trường có tiềm năng.

 Những tín hiệu tốt

Theo tinh thần đó, trên phạm vi cả nước, tính đến tháng 8-2012, Bộ Tài chính đã thực hiện gia hạn, miễn, giảm thuế các khoản:

-  Thuế giá trị gia tăng: Hơn 190.280 doanh nghiệp được gia hạn các tháng 4, 5 và 6-2012 với tổng số tiền 11.000 tỷ đồng.

- Thuế thu nhập doanh nghiệp: Gia hạn 2.868 tỷ đồng nợ thuế cho khoảng 70.300 doanh nghiệp, trong đó số nợ thuế từ năm 2010 trở về trước chiếm gần 50%.

- Tiền thuế đất: Hơn 2.400 doanh nghiệp được giảm 50% năm 2012, với số tiền giảm là 250 tỷ đồng.

- Thuế môn bài năm 2012 cho hộ đánh bắt hải sản và hộ làm muối: Đã giải quyết miễn thuế và hoàn thuế (đối với các hộ đã thực hiện nộp thuế) khoảng 10 tỷ đồng cho 33.510 hộ.

Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến tháng 9-2012, hơn 80% dư nợ khoản vay tín dụng ngân hàng thương mại của các doanh nghiệp đã hạ xuống dưới 15%/năm (thậm chí một số còn 9%).

Nhờ đó, kể từ tháng 8-2012 đã có hàng nghìn doanh nghiệp quay lại hoạt động và số lượng doanh nghiệp dừng hoạt động đã giảm mạnh trong thời gian gần đây. Cụ thể, trong tháng 10-2012 chỉ có 1000 doanh nghiệp dừng hoạt động so với con số 4000 đến 5000 doanh nghiệp/tháng của các tháng 7, 8 và trước đó.

Cần thấy rằng, việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp năm 2012 không chỉ ở đầu vào, mà cả ở đầu ra, không chỉ là lĩnh vực sản xuất kinh doanh, mà cả người tiêu dùng thông qua việc hỗ trợ thị trường. Việc hỗ trợ không có tính tràn lan, mà đòi hỏi phải đúng đối tượng, không chỉ bao gồm các doanh nghiệp, mà còn cả làng nghề, hộ cá thể; không chỉ các thành phần kinh tế trong nước, mà còn cả đầu tư từ nước ngoài; đặc biệt là các doanh nghiệp trong nông nghiệp, dịch vụ, và công nghiệp phụ trợ. 

Chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay không nên quá 3%

Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, để hỗ trợ doanh nghiệp thực sự trong thời gian tới, cần tạo tính đột phá và mạnh mẽ hơn, như: áp lại trần lãi suất cho vay bám sát trần lãi suất huy động không quá 3%; tăng cường sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc và mua bảo hiểm tiền gửi tùy theo quy mô và tính chất tín dụng của ngân hàng; tăng mức bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ lợi ích và củng cố lòng tin người gửi tiền, giảm thiểu nguy cơ giảm sút và rút tiền gửi khỏi ngân hàng; hạ nhanh và nhiều hơn mức thuế các loại, trong đó có hạ mức thuế thu nhập doanh nghiệp (ví dụ, từ mức 25% xuống 20%), áp dụng một loại mức chung thuế giá trị gia tăng - VAT (ví dụ 5%).

Đặc biệt, cần giảm tải nhiều hơn gánh nặng thể chế cho doanh nghiệp thông qua các đột phá cụ thể và mạnh mẽ hơn nữa về phân cấp và trách nhiệm cá nhân trong quản lý nhà nước. Đơn giản hóa thủ tục và gia tăng chế tài trừng phạt những hành vi nhũng nhiễu làm tăng các chi phí trung gian, phi chính thức cho doanh nghiệp và người dân. Ngoài ra, cũng cần xác định rõ tiêu chí (với mức ưu tiên các doanh nghiệp tùy thuộc vào hợp đồng tiêu thụ, kết quả nộp thuế và trả nợ ngân hàng...) và cách thức cụ thể để các doanh nghiệp tiếp cận được với các trợ giúp một cách rõ ràng và đầy đủ hơn, giảm thiểu tình trạng thiếu công bằng, lạm dụng cơ chế xin - cho và tham nhũng có thể xảy ra... Đặc biệt, cần đề cao sự linh hoạt, kịp thời, trách nhiệm, sự chia sẻ, phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài chính - chính sách tiền tệ, giữa các ngành, các cấp quản lý, giữa Trung ương và địa phương... để giúp cho sản xuất, kinh doanh và thị trường giảm bớt gánh nặng tài chính, lãi suất, thể chế, để thêm sức mạnh và động lực cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn, phát triển ổn định, bền vững hơn.

Tiến sĩ NGUYỄN MINH PHONG

Bài liên quan:
BÀI 1

BÀI 2