Chất độc CS là gì?`
Chất độc o-clorobenzylydenmalononitril (CS) là hợp chất kết tinh màu trắng và có mùi hạt tiêu nhẹ. Áp suất hơi của CS nhỏ không đáng kể, nhiệt độ nóng chảy của CS là 950C - 960C, nhiệt độ sôi từ 310 ÷ 3150C, ở nhiệt độ này CS bị phân huỷ cho sản phẩm màu đen.
CS tan ít trong cồn, ete và CCl4. Tan tốt trong axeton, benzen, clorofooc, dioxan, etylacetat và cacbondisulfua, CS hầu như không tan trong nước nó có khả năng bay hơi mạnh đồng thời khuếch tán nhanh trong không khí. Nó dễ bị hấp phụ bởi các vật liệu xốp như: Len, dạ, vải, gỗ, ngói, rơm rạ vv… Chất độc CS có 2 dạng, đó là: CS1 và CS2.
CS1: là hỗn hợp chứa 95% CS và 5% silicagen đã được tuyển chọn. Nó tồn tại dưới dạng bột mịn và thường được nạp vào trong các loại vũ khí nổ hoặc thiết bị phun rải như: Bom, đạn, can, thùng phuy, dàn phóng vv…
CS2: tương tự như CS1 nhưng được tẩm silicon (hexametylendisilosan có tác dụng chống thấm ướt), CS2 có thể tồn tại ở trạng thái lơ lửng tốt hơn CS1.
Chất độc CS gây tác hại chủ yếu đối với mắt, ở nồng độ cao CS có thể gây tác cho cả đường hô hấp và da. Ở nồng độ rất thấp CS vẫn gây tác hại cho con người.
 |
Chất độc CS trong đạn. |
Theo Đại tá Nguyễn Văn Thơi, nguyên Phó phòng Nghiên cứu tổng hợp, Trung tâm Công nghệ xử lý môi trường, nay là Viện Hóa học - Môi trường quân sự: Chất độc CS gây trúng độc trên nhiều phương diện khác nhau như: Trên mắt sau 20 đến 60 giây gây chảy nước mắt, đỏ mắt, nặng hơn có thể gây viêm giác mạc, thị lực giảm dần đến mất sức chiến đấu nhanh chóng. Trên đường hô hấp dưới tác dụng của hơi chất độc CS có thể bị hắt hơi liên tục, ho, rát họng và khó thở. Nếu hít thở ở nồng độ cao và trong khoang thời gian dài thì hơi chất độc CS có thể vào phế nang gây viêm phổi và xung huyết phổi. Khi bị dính chất độc CS lên da, lúc đầu sẽ không có cảm giác gì, tuy nhiên chỉ sau khoảng 2 đến 3 phút da sẽ bị bỏng rát, nếu da bị ẩm ướt có thể bị xung huyết và rộp phồng khi tiếp xúc ở nồng độ cao. Nếu bị trúng độc nhiều lần thì có thể bị viêm da dị ứng: Da đỏ, nổi sần và mọng nước. Khi bị trúng độc nặng thường xuyên xuất hiện triệu chứng toàn thân như: Rối loạn hô hấp rất khó thở, rối loạn tim mạch, mệt mỏi và suy nhược cơ thể, kiệt sức hôn mê dẫn đến chết.
Xử lý, thu gom chất độc CS
Sau giải phóng (1975), chất độc CS và các vũ khí, phương tiện chứa CS vẫn còn tồn lưu với số lượng khá lớn, chủ yếu là ở các kho, căn cứ quân sự cũ và nằm rải rác ở các cánh rừng, nương rẫy ở hầu hết các tỉnh miền Nam nước ta. Ngoài ra trước khi rút chạy Mỹ, Nguỵ còn đào hố để chôn lấp, che dấu các thùng chứa, vũ khí và phương tiện chứa chất độc CS.
Các loại vũ khí hoá học của quân đội Pháp và Mỹ đã sử dụng trong các cuộc chiến tranh xâm lược nước ta trước đây hiện vẫn còn tồn tại và gây nguy hại cho sức khoẻ con người, cũng như ô nhiễm cho môi trường. Từ năm 1982, Bộ Quốc phòng đã có chủ trương về việc thu gom, vận chuyển bom đạn cấp 5, các loại vũ khí và phương tiện chứa CS còn tồn lưu trong các kho tàng, căn cứ quân sự cũ để đưa đến các vị trí thích hợp để xử lý bằng phương pháp chôn lấp kết hợp với sử dụng vôi bột, do chưa có công nghệ xử lý triệt để tính độc quân sự của chất độc CS. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của thiên nhiên: Mưa, bão, xói lở đất làm cho lớp đất phủ trên các hố chôn chất độc bị bào mòn để lộ các thùng, can CS đã được chôn lấp trước đó. Mặt khác, trong quá trình đi tìm kiếm sắt vụn, làm nương rẫy và quá trình san ủi mặt bằng nhân dân đã phát hiện ra các thùng phuy, can nhựa và các loại vũ khí, phương tiện chứa chất độc CS, một số còn nguyên và một số bị phá hủy làm cho chất độc có điều kiện phát tán gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới sức khỏe con người.
 |
Xử lý đất có chất độc CS. |
 |
Xử lý chất độc CS tại Đắk Lắk. |
Thiếu tướng Hà Văn Cử, Tư lệnh Binh chủng Hoá học cho biết: Năm 2003, Viện Hóa học - Môi trường quân sự đã nghiên cứu thành công nghệ xử lý chất độc CS và đã được Hội đồng nghiệm thu cấp Bộ Quốc phòng đánh giá xuất sắc, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký quyết định ban hành Quy trình công nghệ số 255/QĐ-BQP ngày 15-10-2003. Quy trình công nghệ xử lý chất độc CS tồn lưu sau chiến tranh ra đời đã góp phần xử lý triệt để số lượng chất độc CS, đạn chứa chất độc CS và đất nhiễm chứa chất độc CS mà các địa phương phát hiện được.
Hiện nay, chất độc CS và đạn dược chứa chất độc CS được tìm thấy với số lượng ít ở dạng nhỏ lẻ, thì lực lượng của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh trực tiếp thu gom, xử lý theo “Quy trình xử lý chất độc CS đơn lẻ” đã được Chủ đầu tư tập huấn dưới sự giám sát của Phòng Hóa học, Phòng Khoa học Quân sự Quân khu và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh. Đối với khu vực tồn lưu đạn dược chứa chất độc CS tại các kho của các Quân khu, trong suốt quá trình thu gom, xử lý đều có cán bộ nghiệp vụ của kho theo dõi, giám sát chặt chẽ. Kết quả thu gom, xử lý được tổng hợp và báo cáo về Chủ đầu tư.
Còn các địa điểm có chứa số lượng lớn chất độc CS và đất nhiễm chất độc CS, Chủ đầu lập kế hoạch thu gom, xử lý trình Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Hóa học phê duyệt. Sau khi Kế hoạch được phê duyệt, Chủ đầu tư tiến hành phối hợp, hiệp đồng với các lực lượng tham gia, tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật thu gom, xử lý, vận chuyển và tập trung vật tư hóa chất phục vụ cho quá trình thu gom, xử lý, tổ chức thu gom, xử lý tập trung tuân thủ theo đúng quy trình đã được Bộ Quốc phòng ban hành tại Quyết định số 255/QĐ-BQP ngày 15/10/2003. Quá trình thực hiện có sự theo dõi, giám sát của Phòng Khoa học Quân sự/Quân khu, Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, UBND xã, phường nơi thu gom, xử lý tập trung.
Từ năm 2013 đến năm 2015, đã tiến hành thu gom, xử lý 06 địa điểm tập trung đó là: Tại huyện Cư Jút và Đắk Song tỉnh Đắk Nông; 1,188 tấn chất độc CS và 45m3 đất nhiễm tập trung tại huyện Sa Thầy tỉnh Kon Tum; 0,25 tấn chất độc CS và 50m3 đất nhiễm tại Cụm kho CK55/Cục Kỹ thuật/Quân khu 5; 1,044 tấn chất độc CS và 38m3 đất nhiễm chất độc CS tại xã Sa Loong, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum; 0,54 tấn chất độc CS và 12,5m3 đất nhiễm chất độc CS tại kho K1 thuộc Quân khu 9 tỉnh Tiền Giang.
Những kết quả khả quan
Những năm qua Binh chủng Hoá học đã chủ động, tích cực tham mưu cho Bộ Quốc phòng, Nhà nước và trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ khắc phục chất độc hoá học tồn lưu sau chiến tranh, xử lý sự cố môi trường, trong đó có nhiệm vụ điều tra, thu gom, xử lý chất độc CS. Đối với công tác điều tra, thu gom, xử lý chất độc CS tồn lưu sau chiến tranh đã được triển khai thực hiện trên địa bàn các tỉnh thuộc các Quân khu 4, 5, 7, 9 kể từ năm 1999 cho đến nay. Đã tiến hành điều tra, phúc tra trên địa bàn của 34 tỉnh, thành phố. Phát hiện và đã thu gom, xử lý chất độc CS: 239,527 tấn; vũ khí, vật nổ, đạn dược chứa chất độc CS: 181,424 tấn; hóa chất độc các loại: 15 tấn; khối lượng đất nhiễm chất độc CS: 175 m3; diện tích tẩy độc đất nhiễm chất độc CS: 6.150 m2 đất. Ngoài ra còn xây tường bao cho 14 điểm xử lý tập trung tại các tỉnh: Đà Nẵng, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Nông, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Đồng Tháp, An Giang; xây dựng bản đồ số hóa cho tất các điểm tồn lưu chất độc CS phát hiện được.
Thực tế cho thấy, chất độc CS và đạn dược chứa chất độc CS tồn lưu sau chiến tranh hiện nay vẫn còn, chủ yếu nằm sâu trong lòng đất tại các khu vực có địa hình hiểm trở... nên việc phúc tra, tổ chức thu gom, xử lý rất khó khăn và tốn kém. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo của các cấp, các ngành công tác điều tra, thu gom, xử lý chất độc CS vẫn đang được triển khai hiệu quả, qua đó đem lại môi trường trong sạch, phục vụ phát triển kinh tế- xã hội.