Ngày 12-3-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 14/SL đổi tên Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam thành Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam. Chức danh Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam được đổi thành Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam.

Ngày 18-6-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 50/SL xác định nhiệm vụ và tổ chức Bộ Quốc phòng trên tinh thần hợp nhất Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tư lệnh.

Sắc lệnh quy định:

- Về nhiệm vụ:

“Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ

1-Tổ chức và quản trị quân đội và các cơ quan quốc phòng

2-Điều khiển các cơ quan sản xuất quốc phòng

Ông Tổng tư lệnh:

1-Phụ trách chỉ huy quân đội và dân quân Việt Nam

2-Sử dụng các cơ quan giúp việc chỉ huy

3-Quyết định việc điều động và sử dụng các sản phẩm’’

- Về tổ chức:

“Bộ Quốc phòng có các cơ quan:

1-Các cơ quan trực tiếp giúp việc Bộ trưởng: Văn phòng, Quân vụ, Sự vụ.

2-Các nha chuyên sản xuất: nha Quân giới, nha Quân nhu, nha Quân dược.

3-Các cục giúp về chỉ huy: Bộ Tổng tham mưu, Cục Chính trị, Cục Quân huấn, Cục Dân quân, Cục Quân chính, Cục Quân pháp, Cục Tình báo, Cục Pháo binh, Cục Công binh, Cục Quân giới, Cục Quân nhu, Cục Quân y, Cục Thông tin liên lạc, Cục Vận tải.

4-Đoàn thanh tra”.

Chức danh người đứng đầu cơ quan trực tiếp giúp việc Bộ trưởng gọi là Đổng lý, người đứng đầu nha gọi là Giám đốc, người đứng đầu cục gọi là Cục trưởng.

Với tổ chức trên, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng chỉ huy đã thực sự thống nhất do một Bộ trưởng chỉ huy. Tuy nhiên, có nhiều cục, nhiều nha, nhiều đổng lý, tổ chức vẫn còn nặng nề, cồng kềnh.

Ngày 11-7-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 121/SL về tổ chức Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam. Theo đó, “Điều 1-Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam gồm các cơ quan:

Bộ Tổng tham mưu

Tổng cục Chính trị

Tổng cục Cung cấp

Trực tiếp giúp Tổng tư lệnh trong việc chỉ đạo chiến tranh về phương diện quân sự.

Đoàn thanh tra

Văn phòng

Giúp Tổng tư lệnh trong việc liên lạc với các cơ quan đoàn thể nhân dân…’’.

Ngày 13-7-1950, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam đã ra Thông tư số 47/TT-A giải thích về tổ chức mới của Bộ Tổng tư lệnh. Thông tư có đoạn viết:

Để sự chỉ đạo chiến tranh được tập trung hơn nữa, để việc huy động mọi khả năng, mọi lực lượng cho tiền tuyến được nhanh chóng và chu đáo hơn nữa, tổ chức lại Bộ Tổng tư lệnh, thành lập Bộ Tổng tham mưu, hai Tổng cục, đoàn Thanh tra, Văn phòng Bộ Tổng tư lệnh…’’.

Từ đây, bắt đầu có cấp Tổng cục bao gồm một số cục trong cơ quan Bộ.

1-Bộ Tổng tham mưu: Văn phòng, Cục Tác chiến, Cục Quân báo, Cục Thông tin liên lạc, Cục Dân quân, Cục Quân huấn.

2-Tổng cục Chính trị: Văn phòng, Cục Tổ chức, Cục Tuyên huấn, Cục Quân pháp, Cục Địch vận, Nhà xuất bản Vệ quốc quân.

3-Tổng cục Cung cấp: Văn phòng, Cục Quân lương, Cục Quân y, Cục Quân vụ, Cục Vận tải, Cục Quân giới, Cục Quân trang, Phòng Quân khí.

4-Đoàn Thanh tra

5-Văn phòng Bộ Tổng tư lệnh

Ngoài ra còn có Cục Pháo binh, Cục Công binh và quân hiệu (các trường quân sự) được Tổng tư lệnh uỷ quyền Tổng Tham mưu trưởng chỉ đạo.

Đầu năm 1955, cơ quan Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh được chấn chỉnh tổ chức và được gọi là cơ quan Tổng quân uỷ-Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh.

Trong văn bản “Mấy điều giải thích về chấn chỉnh tổ chức cơ quan Tổng quân uỷ” đề ngày 1-4-1955, có đoạn viết:

“Bộ máy chỉ đạo quân sự của Đảng gọi là Tổng quân uỷ, về chính quyền vẫn gọi là Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh.

Những cơ quan chính của Tổng quân uỷ vẫn có Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp.

Ngoài ra còn có một Văn phòng đồng thời là Văn phòng Tổng quân uỷ và Văn phòng Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh…’’.

Văn bản đó còn nói đến một số điểm nữa như đổi tên Tổng cục Cung cấp thành Tổng cục Hậu cần, tách và thành lập thêm một số cơ quan trực thuộc Bộ hoặc trực thuộc các Tổng cục và hình thành các cơ quan:

1-Văn phòng Tổng quân uỷ-Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh.

2-Bộ Tổng tham mưu: Văn phòng, Cục Tác chiến, Cục Quân báo, Cục Thông tin liên lạc, Cục Quân lực, Cục Quân huấn, Cục Quản lý hành chính kinh tế, Phòng Giao thông quân sự, Phòng Cơ yếu, Phòng Đồ bản.

3-Tổng cục Chính trị: Văn phòng, Cục Tổ chức, Cục Tuyên huấn, Cục Địch vận, Cục Bảo vệ, Cục Chính trị trực thuộc, Báo Quân đội nhân dân, Thể công, Văn công, Phòng Tài vụ.

4-Tổng cục Hậu cần: Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Quân nhu, Cục Quân y, Cục Quản lý xe hơi máy kéo, Cục Quân giới, Phòng Quản lý doanh trại, Phòng Xăng dầu, Phòng Sản xuất trang dụng, các đoàn xe hơi, các đoàn thuyền, canô, báo Hậu cần, trường Hậu cần, Phòng Liên lạc biên giới.

5-Các đơn vị trực thuộc khác: Cục Pháo binh, Cục Công binh, Cục Phòng không, Cục Hàng không, Cục Phòng thủ bờ biển, Cục Dân quân, Cục Tài vụ, Cục Quân khí, cơ quan quân pháp, trường Lục quân, trường Quân chính trung cấp, Toà soạn Quân chính tập san.

Ngày 24-9-1955, Tổng quân uỷ đã ra Nghị quyết số 10/VP-TQU về cải tiến cách làm việc, trong đó có đoạn xác định vị trí, nhiệm vụ của các cơ quan giúp việc:

“Đứng về phía chỉ đạo của Đảng về quân sự mà nói thì cơ quan thống nhất chỉ đạo toàn quân là Tổng quân uỷ, các cơ quan giúp việc là Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần. Tổng quân uỷ thông qua các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần mà thực hiện sự lãnh đạo của mình; ngược lại sự chỉ đạo công tác của các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần đối với đơn vị đều phải tập trung thống nhất vào chủ trương và kế hoạch chung của Tổng quân uỷ mà cơ quan giúp việc hàng ngày cho Tổng quân uỷ là Văn phòng Tổng quân uỷ…’’.

Kể từ đây, Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh cũng như từ tháng 11-1960, trở lại tên ban đầu là Bộ Quốc phòng, còn có những thay đổi như thành lập hoặc giải thể, tách ra hoặc nhập vào một số tổng cục, cục, viện, nhà trường hoặc cơ quan, đơn vị trực thuộc khác cho phù hợp với tình hình từng giai đoạn.

NGUYỄN VĂN ĐỊNH