Chưa thật sự được hưởng cuộc sống hoà bình trên mảnh đất quê hương, nhân dân Nam Bộ lại một lần nữa phải cầm súng vùng lên chiến đấu chống lại hành động xâm lược trắng trợn, tàn bạo của thực dân Pháp. Ngày 29-10-1945, thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi động viên tinh thần chiến đấu của đồng bào Nam Bộ. Bất chấp chênh lệch về mọi mặt quân dân Nam Bộ đoàn kết một lòng, vâng lời Bác ngày đêm quyết tâm chiến đấu tiêu diệt quân viễn chinh xâm lược. Tất cả với niềm tin: Vâng lời Bác “Nam Bộ quyết tâm chiến đấu đến cùng”.

Cuối tháng 10-1945, quân xâm lược Anh- Pháp đã phá vỡ được vòng vây Sài Gòn-Chợ Lớn, tiếp tục đánh chiếm toàn Nam Bộ. Nhiệm vụ chiến đấu của quân và dân nơi đây chuyển từ kìm chân địch trong thành phố sang làm chậm bước tiến của quân xâm lược và tiếp tục chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài. Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Xứ uỷ Nam Bộ khẩn cấp triệu tập hội nghị và quyết định: Gấp rút xây dựng lực lượng, lấy du kích chiến là chính, làm vườn không nhà trống, đẩy mạnh công tác trừ gian, xây dựng cơ sở bí mật trong các thành phố, thị xã bị địch chiếm đóng, khôi phục chính quyền ở những nơi bị tan vỡ. Kể từ sau Cách mạng Tháng Tám, đây là hội nghị đại biểu Đảng đông đủ nhất của Đảng bộ Nam Bộ kháng chiến. Bốn ngày sau (29-10) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ. Người xác định: “Tâm trí tôi luôn luôn bên cạnh mấy triệu đồng bào quyết chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ cho nền độc lập Việt Nam”. Vâng lời Người toàn thể nhân dân Nam Bộ quyết đứng lên thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, quyết tâm giữ vững nền độc lập của Tổ quốc.

Với khẩu hiệu “Diệt địch ngay trong tim gan chúng”, xây dựng “Phương thức tác chiến biệt động”, quân và dân Nam Bộ quyết tâm thực hiện bằng được mong ước cao cả của Bác. Để tăng cường nhân cốt lãnh đạo, Trung ương quyết định phần lớn những đảng viên ưu tú vừa thoát khỏi tay giặc ở lại Nam Bộ lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Mọi việc mới chỉ bắt đầu thì binh đoàn thiết giáp Mát-xuy của Pháp đã đến Sài Gòn, nâng lực lượng quân pháp ở Nam Bộ lên tới 6 nghìn tên, chưa kể 20 nghìn quân Anh, 40 nghìn quân Nhật. Tướng Lơ-cléc hoạch định chương trình “đánh nhanh, thắng nhanh” chiếm các vùng trọng yếu, để mở rộng phạm vi chiếm đóng toàn Nam Bộ, nam Trung Bộ, thực hành bình định triệt để...

Khó khăn mới tăng vọt, rất nhiều vấn đề cấp bách cần phải giải quyết ngay. Một trong những công viêc cần phải ổn định sớm là đồng bào ta tản cư trong những ngày bao vây địch ở thành phố, bây giờ cần phải trở lại để chuẩn bị đấu tranh lâu dài ngay trong vùng bị địch tạm chiếm. Đảng viên, cán bộ, tự vệ nội thành một phần cần phải chuyển ra bưng biền, chiến khu, nhưng một bộ phận phải ở lại cùng nhân dân nội thành xây dựng cơ sở kháng chiến. Lực lượng trụ cột nội thành là các đơn vị vũ trang, bán vũ trang của các xí nghiệp, quận và các khu lao động. Khi quân Pháp mổ rộng lấn chiếm, các “Đội cảm tử”, ban trinh sát, ban hành động, quân báo, trừ gian lập tức thi hành nhiệm vụ. Các căn cứ lõm bên trong dựa thế lòng dân, ngõ hẻm bảo đảm tiếp tế hậu cần, vũ khí lấy được của địch chuyển ra chiến khu. Thành phố vừa là tiền phương vừa là hậu phương của quân ta. Cùng lúc ấy, qua tổ chức Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc, ta đã tranh thủ tập hợp được đông đảo quần chúng từ các cơ sở đường phố, xí nghiệp, liên hộ, các nhân sỹ trí thức có uy tín kịp thời mời họ tham gia Mặt trận Việt Minh. Gấp rút tổ chức thành lập báo “Cảm tử” của Công đoàn, báo “Chống xâm lăng” của Mặt trận Việt Minh để cổ vũ cho công cuộc kháng chiến lâu dài và lòng tin tất thắng cho quần chúng nhân dân. Cũng ngay lúc ấy phán đoán được ý định của địch mở rộng đánh chiếm về hướng tây Sài Gòn và các tỉnh Chợ Lớn- Tân An, ta đã huy động nhân dân tranh thủ ngày đêm vào việc dựng chướng ngại, ngăn cản đường xe, các LLVT theo kế hoạch đã được thống nhất từ trước, bộ phận nào ở đâu nhanh chóng tự dàn trận chủ động thực hành đánh tiêu hao, làm chậm bước tiến của chúng.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ hàng nghìn quần chúng nhân dân lao động đồng loạt vùng dậy vác dao gậy, cuốc xẻng ra quốc lộ Đông Dương, liên tỉnh lộ 5 chặt ngả cây, đào đường, đắp ụ ngăn quân giặc. Trên mặt trận sông nước,các kênh Nước Mặn, Rạch Cát có tới gần một trăm ghe chài chở đất nặng làm vật cản, từng đoàn xuồng ghe ken dày trên sông, kết lại bằng dây cáp sắt chặn ngang sông để ngăn tàu giặc. Các trạm tù ở cầu Bình Điền, các trạm mõ dọc quốc lộ, tỉnh lộ làm nhiệm vụ báo tin tức trinh sát được về tình hình và khả năng tiến quân của địch... Sau nhiều ngày đêm vây hãm kìm chân địch, ngày 8-11, quân ta chủ động thực hành tiến công tổng hành dinh cao uỷ Pháp, khiến quân Anh, Nhật ở các tỉnh phải cấp tốc điều về Sài Gòn để cứu vãn tình thế, số này cũng bị quân dân Nam Bộ phân tán trên các trục lộ đánh nhỏ lẻ tiêu hao chúng. Liên tiếp những ngày sau quân Pháp bị ta dồn dập tiến công, hầu hết những khu vực quân Pháp đồn trú đều bị quân dân Nam Bộ xông vào đuổi đánh. Chỉ bằng các loại vũ khí thô sơ tự tạo, nhưng bất kể ngày hay đêm, xa hay gần khi có hiệu lệnh huy động, rất đông quần chúng nhất tề xông lên dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ. Trận tiến công tổng hành dinh cao uỷ Pháp ta thu15 khẩu đại liên, 72 nghìn viên đạn, bọn chúng phải dùng 5 xe tải chở xác chết đồng bọn. Đặc biệt trận tiến công lớn của lực lượng vũ trang Sài Gòn đánh vào trại lính Pháp ở Đơ-ru-ê (nay là đường Hùng Vương). Bị đánh bất ngờ, hàng nghìn quân Pháp trong trại không kịp trở tay, chỉ nằm tại chỗ bắn vung vãi. Ta phóng lửa đốt trại, lửa cháy hai giờ liền, thiêu huỷ toàn bộ. 400 tên chết tại chỗ, số bị thương nằm chật bệnh viện Sài Gòn. Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ đã khen ngợi công lao và khẳng định “Đây là trận tiến công lớn lao nhất chưa từng xảy ra ở Nam Bộ”.

Vâng lời Bác, quân dân Nam Bộ không tiếc máu xương, xả thân chiến đấu với quân giặc quyết tâm giữ vững nền độc lập của dân tộc. Trước tình hình mới khó khăn bội phần, ngày 22-2-1946 một lần nữa Chủ tịch Hồ Chí Minh lại ra lời hiệu triệu động viên quân và dân miền Nam giữ vững và đẩy mạnh kháng chiến. Người chỉ rõ: Kháng chiến của ta là phải toàn diện, lâu dài, triệt để vận dụng cách đánh du kích, đánh khắp nơi, “còn một tấc đất, còn một người dân thì còn chiến đấu”. Và cũng trong những ngày đó, trong thư gửi đồng bào Nam Bộ, Người đã thay mặt đồng bào cả nước tặng quân và dân Nam Bộ danh hiệu “Thành đồng tổ quốc”.

Phạm Văn Mạnh