Đầu tháng 10-1947, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (Trường Sĩ quan Lục quân 1 ngày nay) nhận nhiệm vụ Bộ Tổng tư lệnh giao, nhanh chóng triển khai lực lượng, chặn đánh địch từ Chợ Đồn (Bắc Kạn) và Chiêm Hóa (Tuyên Quang) tiến công lên Bản Thi, thuộc địa bàn tỉnh Bắc Kạn, nhằm phá vỡ kế hoạch hợp điểm, hội quân của địch, góp phần bảo vệ cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ ta.
Chấp hành mệnh lệnh của trên, nhà trường được biên chế thành một trung đoàn, lấy phiên hiệu là Trung đoàn 79 để thực hiện nhiệm vụ. Để chặn đánh địch, nhà trường chia thành hai đoàn: Đoàn 1 chặn đánh địch từ Chợ Đồn sang, đoàn 2 chặn đánh địch từ Chiêm Hóa đến. Sau khi tổ chức phát động thi đua giết giặc lập công, hai đoàn gấp rút hành quân đến khu vực tác chiến được phân công.
Biên chế trong các đoàn có đại đội và trung đội. Vũ khí trang bị chủ yếu là súng trường, lựu đạn. Đoàn 2 còn được trang bị một khẩu đại liên Hốt-kít. Số lượng vũ khí ít ỏi, để chặn đánh địch hiệu quả, các đại đội xác định sử dụng tiết kiệm đạn, đặt mục tiêu “mỗi viên đạn một quân thù”, đồng thời nêu cao tinh thần dũng cảm, bản lĩnh chiến đấu của bộ đội. Khi đến vị trí tập kết và triển khai chiến đấu, các đơn vị trinh sát kỹ địa hình, lợi dụng địa hình, bố trí lực lượng có chiều sâu, hỗ trợ lẫn nhau trong chiến đấu.
Khoảng 8 giờ sáng ngày 18-10-1947, bộ phận tiền trạm của địch đã tiến vào gần trận địa của ta bố trí phục kích. Khi địch vào đến tầm hỏa lực hiệu quả, các trung đội, đại đội đồng loạt nổ súng. Khẩu đại liên Hốt-kít sau hai loạt bắn thì bị hỏng. Địch thấy vậy hò nhau xông lên, nhưng bị hỏa lực súng trường nhiều lớp của ta bắn chặn, chúng phải rút chạy về phía Đầm Hồng, Chiêm Hóa (Tuyên Quang).
Thừa thắng, nhà trường tổ chức một bộ phận, ngay đêm đó tập kích đồn Yên Thịnh thuộc Chợ Đồn (Bắc Kạn), tiêu diệt địch và giành thắng lợi.
Trận phục kích đánh địch ở Bản Thi góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947, là dấu son truyền thống của Trường Sĩ quan Lục quân 1, đồng thời có ý nghĩa về nghệ thuật quân sự. Đó là sự vận dụng linh hoạt tác chiến phục kích, tập kích địch với ưu thế về vũ khí trong thời kỳ đầu kháng chiến, trong điều kiện chủ lực ta còn mỏng. Để giành thắng lợi, ta đã phối hợp chặt chẽ phát triển chiến tranh du kích, hiệp đồng trên các chiến trường, chủ động đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến thắng trận Bản Thi còn thể hiện sự kết hợp chặt chẽ vừa huấn luyện vừa chiến đấu, nhà trường gắn với chiến trường, qua đó nâng cao trình độ chiến đấu cho bộ đội, góp phần hoàn chỉnh nghệ thuật quân sự Việt Nam, nhất là trong tổ chức lực lượng và tác chiến ở quy mô cấp phân đội.
NGUYỄN QUANG PHÁT