QĐND Online – Đúng 20 giờ 13 phút ngày 18-12-1972, “Pháo đài bay” B52 đầu tiên của không quân Mỹ trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”, bị Phân đội 59, Đơn vị H61 (Đoàn Phòng không B61) quật cổ trên bầu trời Hà Nội. Trong khi “niềm kiêu hãnh của không lực Hoa Kỳ” vẫn rừng rực cháy, thì trên cánh đồng Cấm, đồng Gầm, đồng Chuôm, quân dân các xã Phù Lỗ, Đông Xuân ,huyện Kim Anh, Vĩnh Phú…đang rập rập bước chân truy tìm giặc lái…

Tượng đài ghi dấu chiến công bắn rơi chiếc B52 đầu tiên trong chiến dịch “Hà Nội-Điện Biên phủ trên không”.

Chúng tôi tìm đến nhà ông ở xóm Đồng-thôn Đông- xã Phù Lỗ  (Sóc Sơn, Hà Nội) vào một chiều cuối năm. Tuy vừa mới ốm dậy, song khi kể lại chuyện truy bắt giặc lái năm nào, ông như khoẻ hẳn lên. Ông còn dẫn chúng tôi ra cánh đồng Chuôm, nơi xác chiếc B52 rơi xuống; đồng Cấm, nơi tên giặc lái bị bắt sống, sau khi thoát hiểm khỏi máy bay. Ông là Đoàn Tấn, khi ấy đang là Xã đội trưởng xã Phù Lỗ, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phú (nay là xã Phù Lỗ thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội).

Khoảng hơn 19 giờ tối hôm ấy, tiếng còi báo động phòng không vang lên dồn dập, báo hiệu thời khắc đối đầu ác liệt của quân, dân miền Bắc với đế quốc Mỹ sắp bắt đầu. Nhà nhà sơ tán người già, trẻ con xuống hầm trú ẩn; lực lượng dân quân và bộ đội chủ lực trên địa bàn gồng mình, căng mắt hướng lên bầu trời tối xẫm.

Đâu đó đã có tiếng máy bay ầm ì. Tiếng động ấy ngày một rõ dần. Tiếp ngay sau đó là tiếng súng, pháo các loại từ mặt đất bắn lên vang rầm, đan lưới lửa đỏ rực trên bầu trời Thủ đô; tiếng bom nổ đinh tai nhức óc ở một nơi nào đó rất gần.

Khi đó, ông đang dẫn đầu một tổ dân quân đi kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu tại các chốt gác ở hai đầu cầu Phù Lỗ và dọc tuyến đường xe lửa chạy qua xã. Khi về đến thôn Đoài, đột nhiên ông thấy lửa rừng rực hắt xuống các ngọn cây, mái nhà, đường làng sáng rõ như ban ngày. Ngước nhìn lên bầu trời, ông thấy một quả cầu lửa khổng lồ đang lao xuống phía cánh đồng Chuôm. Tên lửa bắn rơi máy bay Mỹ rồi! Từ các hướng, dân quân chạy về báo tin dồn dập: “Bom địch rải trúng thôn Đoài, dân quân Nguyễn Văn Nhâm vừa hy sinh”; “Bên thôn Đông, một tên giặc lái đang bị mắc cả người lẫn dù trên ngọn xoan”; “Ngoài cánh đồng Gầm, dân quân vừa tìm được một tên giặc lái đã chết”; “Một chiếc dù đã rơi xuống cánh đồng Cấm, song chưa thấy giặc lái đâu”.

Ngay tức thì, ông Tấn phân công một bộ phận dân quân tổ chức truy tìm tên giặc lái vừa nhảy dù xuống đồng Cấm; một bộ phận khác xuống thôn Đoài, phối hợp cùng địa phương tiến hành những công việc cần thiết đối với trường hợp hy sinh của dân quân Nhâm, rồi ông lao ngay về thôn Đông. Trước mắt ông, tên giặc lái Mỹ vẫn đang treo lơ lửng trên ngọn xoan. Khi mọi người gỡ dù, đưa tên phi công xuống thì hắn đã chết từ lúc nào rồi. Sau khi cắt cử người đưa xác tên phi công về Trạm công an Phù Lỗ, ông lại cùng đồng đội băng về phía đồng Gầm. Trên mặt ruộng, xác một tên phi công to lớn đã chết trong tư thế nằm úp sấp. Nhìn sang vạt ruộng bên kia cánh đồng Chuôm, ngay sát bên quốc lộ 3, xác chiếc B52 vừa rơi xuống vẫn đang rừng rực lửa tựa như một bó đuốc khổng lồ.

“Tôi giao cho anh Trịnh Tự Việt - Xã đội phó, ở lại cánh đồng Gầm giải quyết những việc tiếp theo, rồi lao về cánh đồng Cấm, cùng anh em truy tìm giặc lái. Lực lượng tham gia truy bắt có tới hàng trăm người, cả bộ đội, dân quân và thanh niên trai tráng của địa phương. Ai nấy đều hừng hực lòng căm phẫn. Nhưng kỳ lạ một nỗi là quét đi quét lại cánh đồng đến mấy lần mà tên giặc lái vẫn “bóng chim tăm cá””- ông Tấn bồi hồi nhớ lại.

Ông Đoàn Tấn bên thửa ruộng, nơi tên giặc lái Mỹ bị bắt năm xưa.

Tìm đến nửa đêm mà vẫn chưa ra tên giặc lái, ông cùng anh em dân quân trở về nhà kho của hợp tác xã, cách cánh đồng Cấm chừng 300 mét. Nỗi hậm hực làm ông đứng ngồi không yên. Ông bộc bạch: “Giặc lái nhảy dù xuống địa hình rừng núi, nó lẩn vào rừng rậm, hang sâu, không tóm được đã đành, đằng này nó lại rơi xuống giữa đồng bằng mà không bắt được, ức lắm chứ”.

Nghĩ đến đấy, ông cùng các ông Trịnh Văn Soi, Nguyễn Văn Thị, Phan Đình Dục và cô Nguyễn Thị Thuần, bật cửa lao về phía cánh đồng Cấm, tiếp tục truy lùng tên giặc lái. Lúc ấy cũng đã 4 giờ sáng, trời mùa đông rét căm căm, đèn pin trong tay, cả đội “cày” kỹ từng thửa ruộng. Bất chợt, tiếng sột soạt vang lên từ một vạt ruộng vừa cày vỡ phía trước mặt. Trên mặt ruộng là đống phân chuồng bà con vừa đắp chờ ngày trộn đất trồng màu. Tia phán đoán chợt loé lên, cả đội đồng loạt lao ngay về phía đống phân. Ngay phía sau đống phân chuồng ấy là một tên giặc lái lực lưỡng đang nằm run bần bật. Nguyễn Văn Thị và Trịnh Văn Soi liền giương súng CKC bắn chỉ thiên, tên phi công quỳ mọp dưới chân toán dân quân, giơ tay đầu hàng.

Nhanh như cắt, ông Tấn lột ngay bộ quần áo công tác mà hắn đang mặc. “Tôi làm vậy bởi trong quần áo của hắn có rất nhiều trang thiết bị, phòng hắn sử dụng điện đàm để thông báo cho đồng bọn đến tìm kiếm cứu nạn”. Sau đó cả đội trói tay, cởi giày tên giặc lái. Lục tìm rất kỹ quần áo của hắn nhưng không thấy súng đâu, ông Tấn vỗ tay vào báng súng của mình ra hiệu. Tên giặc trời hiểu ý ngay. Hắn tiến lại luống cày, lấy chân hất khẩu súng lục đang giấu dưới khe đất lên. Ông Tấn nhặt khẩu súng, bắn chỉ thiên liền mấy phát. Phía trong làng, dân quân và nhân dân đã ùa chạy ra vây kín cả cánh đồng, sự căm phẫn trong họ dâng lên cao độ. Ông Tấn vừa trấn an bà con để bảo đảm an toàn cho tên giặc lái, vừa cùng cả đội dẫn giải hắn về Trạm công an Phù Lỗ.

Bên vạt ruộng, nơi tên giặc lái Mỹ năm xưa bị bắt, ông Tấn rủ rỉ với chúng tôi: “Thế là lại sắp đến ngày 18. Vậy là đã tròn 37 năm kể từ cái đêm đáng nhớ ấy. Thời gian trôi đi nhanh thật. Mong rằng tôi còn đủ sức khoẻ để được về họp mặt kỷ niệm 40 năm ngày chiến thắng B52. Sung sướng lắm khi được sống trong khí thế hừng hực của 12 ngày đêm đỏ lửa trên bầu trời Hà Nội năm nào”.

Bài và ảnh: Hoàng Hà-Minh Mạnh