QĐND - 60 năm đã trôi qua kể từ khi diễn ra chiến dịch Tây Bắc 1952, tại Pháp và các nước phương Tây đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp. Trong khi phần lớn các ý kiến đều cho rằng chiến dịch Tây Bắc là một thất bại về chiến lược của thực dân Pháp.

Năm 1952, thắng lợi liên tiếp và sự trưởng thành của quân và dân ta, nhất là từ sau Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 làm cho tình hình nước Pháp càng rối ren. Chỉ trong tháng 2 và tháng 3-1952, nội các Pháp đổ liên tiếp 3 lần. Đờ-lát đờ Tát-xi-nhi bị gọi về nước rồi chết. Sa-lăng lên làm Tổng tư lệnh. Lơ-tuốc-nô làm Cao ủy Đông Dương. Trên chiến trường Việt Nam, thực dân Pháp chủ trương thực hiện chiến lược phòng ngự, ráo riết bình định các vùng tạm chiếm.

Toàn bộ Ban chỉ huy Phân khu Nghĩa Lộ của địch bị ta bắt sống trong trận tấn công ngày 17-10-1952. Ảnh tư liệu.

 

Trong bối cảnh đó, dựa vào so sánh lực lượng giữa ta và địch, căn cứ vào đề nghị của Tổng quân ủy và Bộ Tổng tham mưu, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc (từ 14-10 đến 10-12-1952).

Thời điểm trước khi diễn ra chiến dịch, đời sống và bối cảnh chính trị của nhân dân Pháp vẫn là vấn đề nan giải đối với Chính phủ lâm thời. Tờ tuần báo Hành động (L’Action) số ra ngày 2-4-1952, ký giả người Pháp Hen-ri Clâu (Henri Clau) viết: “Dư luận tiến bộ lên án Chính phủ Pháp đang theo đuổi cuộc chiến ở Đông Dương, nhân dân Pháp bất bình vì tình trạng bắt lính kéo dài”.

Tại Hà Nội, nơi quân Pháp coi là “cái nút của chiến tranh”, tình hình không mấy lạc quan. Các nguồn tin tức đều cho thấy chiến sự sẽ xảy ra mà quân Pháp ngày càng đuối sức về mọi mặt. Tổng chỉ huy Sa-lăng vội vã điện về chính quốc xin viện trợ về lực lượng và tài chính nhưng không được chấp nhận. Khi đó, Béc-na Xta-đi là Phó chủ tịch Quốc hội phụ trách các vấn đề an ninh, tỏ ra thờ ơ và không đệ trình Chính phủ.

Liên tiếp trong hai tháng 7 và 8-1952, nhiều cuộc họp của tướng, tá Pháp đã diễn ra tại Sài Gòn và Hà Nội, ngoài việc xin viện trợ từ chính quốc còn tập trung phán đoán hướng tiến công của Việt Minh nhưng không có gì sáng sủa mà chỉ dừng ở nhận định: “Tình hình ở Tây Bắc không mấy tốt đẹp, chiến sự có thể xảy ra".

Cũng trong thời gian này, một số nhà nghiên cứu quân sự phương Tây lại nhận định rằng: “Nhìn vào nội tình chính trị nước Pháp và cuộc chiến tranh mà Pháp đang theo đuổi, chiến dịch có thể diễn ra cuối năm 1952. Nhưng rồi chiều hướng ngày càng xấu đi về mọi mặt đối với giới cầm quyền Pháp. Không hiểu số phận của cuộc chiến đi đến đâu nhưng nhân dân yêu chuộng tự do, hòa bình ở Pháp đều bất bình”.

Từ những nhận xét trên đây, không chỉ Bộ chỉ huy Pháp mà người cầm quân trực tiếp là Tướng Sa-lăng cũng tỏ ra lo lắng cho số phận của vùng Tây Bắc. Điều lo lắng ấy không có phương sách đối phó nào khác hơn khi mà chiến trường quá rộng, lực lượng Pháp và ngụy đều rất hạn chế.

Về phía ta, đến thời điểm này, công tác phòng gian, giữ bí mật, nghi binh được thực hiện tốt nên địch không phát hiện được hướng tiến công chủ yếu của ta là Tây Bắc, mà chúng nghi ngờ ta sẽ tiến công vùng đồng bằng. Bởi vậy, tướng Sa-lăng cho dàn các lực lượng cơ động dọc tuyến Trung du và phần lớn trên sông Đáy. Tất cả các cứ điểm của địch ở đồng bằng và Trung du được lệnh báo động khẩn cấp, điều đó rất trúng ý định nghi binh của ta.

Cuối tháng 9, qua tin tức tình báo, phía Pháp nghi ngờ hướng tiến công của ta, Tổng chỉ huy Sa-lăng lệnh báo động toàn khu Tây Bắc từ ngày 4-10. Đồng thời, chúng nhanh chóng triển khai lực lượng.

Sau khi ta chuẩn bị về mọi mặt, theo đúng kế hoạch, giai đoạn 1 chiến dịch bắt đầu từ ngày 14-10, các mũi tiến công nhanh chóng thọc sâu, chia cắt địch. Trước diễn biến quá nhanh, Sa-lăng không kịp trở tay. Ngày 15-10, viên Tổng chỉ huy thảo gấp chỉ thị mật từ Sài Gòn và giao cho Đại tá Bút-xa-ri chuyển cho Đờ Li-na-rét đang chỉ huy quân Pháp tại Hà Nội, trong đó chỉ rõ: “Nghĩa Lộ và Sơn La đang bị uy hiếp nặng nề… nhưng các yếu tố nắm được chưa cho phép chúng ta có chủ trương… Phải đợi cho Việt Minh lộ rõ ý định của họ”, và “Địa hình rừng núi đang buộc đối phương phải phân tán. Đó là nhân tố thuận lợi cần chú ý. Để tăng cường cho Nghĩa Lộ và bảo vệ Sơn La, không cần phải ném quân xuống Gia Hội hay Tú Lệ vì hai nơi này quá xa Nghĩa Lộ. Trước mắt, phải dành phần lớn không quân yểm trợ cho Tây Bắc”. Bản chỉ thị tới Tây Bắc quá chậm, sáng sớm 16-10, tiểu đoàn dù số 6 do thiếu tá Bi-gia chỉ huy đã đổ quân xuống Tú Lệ.

Khi đó, Tổng chỉ huy Sa-lăng đang ở Sài Gòn vẫn từng giờ, từng phút chờ đợi Đờ Li-na-rét điện báo về và tự thú nhận rằng, đêm 17-10 là “một đêm đầy lo âu, vì những tin tức hằng giờ bay vào Sài Gòn luôn mâu thuẫn nhau”.

Ngày 18-10, mọi lo ngại của tướng Sa-lăng đã thành sự thật, Đờ Li-na-rét bay từ Tây Bắc về Hà Nội báo cáo: “Thế là hết”. Nội dung ngắn gọn nhưng viên Tổng chỉ huy đã hiểu mọi điều. Thêm vào đó, Béc-na Phôn khẳng định: “Từ trên máy bay, các phi công nhìn thấy rất rõ từng đoàn tù binh kéo đi, tay giơ quá đầu, lê bước giữa hai hàng lính Việt Minh”.

Đến hết ngày 18-10, ta đã đánh những trận then chốt đầu tiên của chiến dịch ở khu vực Nghĩa Lộ thành công. Đây cũng là đòn choáng váng đối với địch. Khi trả lời báo chí về sự thất bại nhanh chóng, Tổng chỉ huy Sa-lăng biện minh: “Ông Giáp đã bất ngờ tập trung Sư đoàn 308 vào Nghĩa Lộ. Các hướng khác như Sầm Nưa, Mường Hét, Mường Hum… chỉ là nghi binh”. Do bị bất ngờ về hướng tiến công và không có sự chuẩn bị trước về mọi mặt nên thất bại ngay từ trận đầu đối với Pháp là điều dễ hiểu.

-------

(còn nữa)

Trung tá, TS Trương Mai Hương