QĐND - Tây Nguyên được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng lựa chọn là chiến trường chính để tổ chức đòn tiến công chiến lược mở màn chiến cục Xuân 1975. Chiến dịch đã thu được thắng lợi giòn giã, triệt để trong một thời gian rất ngắn, làm cho quân địch mặc dù đã đoán chắc rằng hướng tiến công của ta sẽ diễn ra ở Tây Nguyên, nhưng khi bị đánh lại lúng túng, tê liệt, không thể chống đỡ được và bị tiêu diệt hoàn toàn. Một trong những nguyên nhân thắng lợi của ta chính là tài nghệ quân sự và tư duy khoa học, sáng tạo của Bộ thống soái tối cao trong quá trình phân tích, đánh giá và lựa chọn mục tiêu chủ yếu của đòn tiến công chiến lược: Đánh thẳng vào thị xã Buôn Ma Thuột.
 |
Bộ đội ta tấn công, đánh chiếm trại Mai Hắc Đế, thị xã Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên, tháng 3- 1975. Ảnh tư liệu
|
Ngay từ tháng 4-1973, Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh đã lập Tổ trung tâm để giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chuẩn bị kế hoạch Chiến lược quân sự trong giai đoạn mới. Tổ trung tâm gồm đồng chí Vũ Lăng, Cục trưởng Cục Tác chiến BTTM và các đồng chí Lê Hữu Đức; Võ Quang Hồ, Cục phó Cục Tác chiến do đồng chí Lê Trọng Tấn, Phó tổng Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ đạo. Với tinh thần khẩn trương, sau 2 tháng chuẩn bị, ngày 5-6-1973, Tổ trung tâm đã hoàn thành bản dự thảo Đề cương kế hoạch chiến lược mang số 305 TG1, nội dung được bảo mật nghiêm ngặt. Ngay trong dự thảo lần đầu này, Tổ trung tâm đã đề nghị “Hướng chủ yếu của các đòn chủ lực là Tây Nguyên, miền Đông, Trị-Thiên, Quảng Đà, chủ yếu là Tây Nguyên…”. Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp khi làm việc với Tổ trung tâm cũng nói rõ “về hướng tiến công chiến lược là Nam Tây Nguyên, mở đầu bằng đánh Buôn Ma Thuột, tôi dựa vào những suy nghĩ đã có từ những ngày kháng chiến chống Pháp, về tầm quan trọng và vị trí chiến lược quân sự của Tây Nguyên kết hợp với thực tiễn chiến trường lúc này và những chỗ mạnh, chỗ yếu trong thế bố trí chiến lược của Mỹ-ngụy…”(1). Trong một tình huống tập bài cho cán bộ quân sự cấp cao cũng có một đề bài cho học viên: “Nếu chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu thì mục tiêu đầu tiên là ở đâu?”. Tuyệt đại đa số đáp án của học viên đều chọn hướng Nam, đánh vào Buôn Ma Thuột.
Ngày 30-9-1974 tại Hội nghị của Bộ Chính trị sau khi phân tích kỹ đã phê duyệt kế hoạch chiến lược cơ bản được bổ sung lần thứ 7 do Bộ Tổng tham mưu trình bày và xác định “Tây Nguyên, trọng điểm là Nam Tây Nguyên là hướng chiến lược rất quan trọng”(2). Về địa chính trị, Buôn Ma Thuột vừa là thị xã của tỉnh Đắc Lắc vừa là Thủ phủ, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Tây Nguyên với dân số đông đúc tới 96.000 người. Nơi đây đã hình thành một đô thị trung tâm từ rất sớm kể từ thời Pháp thuộc đến thời Mỹ-ngụy. Buôn Ma Thuột có hệ thống hạ tầng cơ sở khá tốt và hoàn chỉnh bao gồm hạ tầng giao thông, kiến trúc đô thị, tạo nên một địa bàn quan trọng của Tây Nguyên. Đất đai của Đắc Lắc trù phú, màu mỡ hơn nhiều so với các tỉnh Tây Nguyên, nhất là đặc sản cà phê và cảnh quan thiên nhiên với sông, hồ nổi tiếng tạo lợi thế du lịch rất tốt, do vậy thị xã Buôn Ma Thuột khá sầm uất. Việc ta lựa chọn đánh vào Buôn Ma Thuột chính là đánh vào địa bàn mang tính biểu tượng của Tây Nguyên làm cho kẻ địch bị choáng váng khi chỗ dựa tâm lý, tinh thần bị đổ vỡ.
Về ta, chiếm được Buôn Ma Thuột sẽ tạo tiếng vang chính trị rất lớn trong bối cảnh quân Mỹ đã bỏ cuộc và quân ngụy đã mất chỗ dựa vào quan thầy Mỹ. Trước đó, từ ngày 13-12-1974 đến 6-1-1975 ta đã mở Chiến dịch Đường 14-Phước Long và kết thúc bằng thắng lợi giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, đây là tỉnh đầu tiên được hoàn toàn giải phóng ở miền Nam, sau đó Mỹ-ngụy có phản ứng yếu ớt, nhưng cuối cùng đành chịu thất bại. Qua chiến dịch này cho ta thấy rõ quân ngụy đã suy yếu đến mức không còn khả năng tổ chức phản kích lớn để chiếm lại một địa bàn chiến lược ngay cửa ngõ Sài Gòn. Về phía quan thầy Mỹ, khi ta đánh lớn khả năng can thiệp trở lại bằng quân sự cũng khó thực hiện trong bối cảnh đã rút ra khỏi chiến tranh Việt Nam. Đối với ta cũng chứng minh khả năng tổ chức và thực hành các chiến dịch lớn của các lực lượng chủ lực Miền đã có bước trưởng thành mới. Lực lượng này có khả năng tiến công và giữ vững các mục tiêu lớn, các địa bàn chiến lược, đặc biệt là khả năng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô vừa và lớn của các quân đoàn dự bị chiến lược khi tiến công các tập đoàn phòng ngự mạnh của địch. Chiến dịch Phước Long được đánh giá là một “đòn trinh sát chiến lược” giúp cho cơ quan tham mưu chiến lược rút ra những vấn đề rất quan trọng về đánh giá địch, ta và dự báo khả năng sắp tới. Đó là một trong những cơ sở khoa học, thực tiễn giúp cho việc xem xét và quyết định trọn Buôn Ma Thuột là mục tiêu chủ yếu của đòn mở đầu chiến cục Xuân 1975 ở chiến trường Tây Nguyên.
Về địa quân sự, Buôn Ma Thuột nằm ở giữa ngã ba của hai con đường chiến lược 14 và 21, có thể coi Buôn Ma Thuột là cái lô cốt chốt giữ giao thông của Nam Tây Nguyên. Từ Buôn Ma Thuột dễ dàng đi lên các tỉnh phía Bắc và đi xuống Đông Nam Bộ-Sài Gòn bằng cả đường không và đường bộ. Quốc lộ 21 nối Đắc Lắc với các tỉnh ven biển rất thuận tiện cho việc cơ động lực lượng, vũ khí, trang bị và lương thực, thực phẩm từ đồng bằng lên Nam Tây Nguyên. Chính về tầm quan trọng đó nên địch bố trí ở Buôn Ma Thuột các căn cứ, hậu phương của các đơn vị chủ lực của Quân khu 2; Quân đoàn 2 ngụy như Sở chỉ huy Sư đoàn 23, căn cứ chỉ huy của Trung đoàn 45, 53, được bảo vệ bởi các đơn vị khá tinh nhuệ gồm 1 Trung đoàn bộ binh, Trung đoàn 232 pháo binh và 2 Tiểu đoàn pháo binh, Trung đoàn 8 thiết giáp, cùng với lực lượng bảo an, cảnh sát, mật vụ, ngụy quyền… với tổng quân số hơn 8000 tên. Ngoài ra còn có hệ thống sân bay, kho tàng vũ khí, vật chất dự trữ của Quân khu 2 ngụy. Với giá trị địa hình quân sự cùng với việc bố trí lực lượng bảo vệ của các quân, binh chủng không quân, bộ binh, pháo binh, thiết giáp… Buôn Ma Thuột thực sự là quả tim, là nơi hiểm yếu của địch. Ta đánh thẳng vào Buôn Ma Thuột là làm cho địch “chết đứng” vì tim ngừng đập. Mặt khác, do Buôn Ma Thuột là hậu phương ở Tây Nguyên nên địch chỉ lo bố trí lực lượng để đối phó với ta ở phía Bắc, còn lực lượng bảo vệ Buôn Ma Thuột tuy đông nhưng khả năng chiến đấu thấp và lại chủ quan do ta không có lực lượng lớn hoạt động thường xuyên ở đây. Hơn nữa do bị ta nghi binh, đánh lừa, nên cả tình báo Mỹ và BTTM ngụy đều đổ dồn sự chú ý lên phía Bắc, kéo hết chủ lực lên Plei-cu và Kon Tum làm cho Buôn Ma Thuột vốn là mục tiêu trọng yếu trở nên yếu. Nhận rõ điều đó nên ta chọn Buôn Ma Thuột là mục tiêu chủ yếu mở màn chiến cục Xuân 1975 chính là ta tránh chỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu nhưng là hiểm yếu của địch.
Việc chọn Buôn Ma Thuột là mục tiêu chủ yếu còn là vì ta có lợi thế về yếu tố thiên thời, địa lợi. Tháng 3 ở Tây Nguyên nói chung và Đắc Lắc nói riêng đang là mùa khô, nên các hoạt động của bộ binh, xe tăng, pháo binh rất thuận tiện là điều kiện tốt để ta tổ chức tác chiến hiệp đồng binh chủng-một yêu cầu cấp bách khi tiến công vào một mục tiêu lớn như Buôn Ma Thuột. Mặt khác, địa hình bằng phẳng, mạng đường sá có sẵn và mở mới rất thuận tiện cho việc cơ động lực lượng đánh địch phản kích, hoặc co cụm. Quân ngụy tuy cũng lợi dụng được địa hình để đổ quân xuống hòng giải tỏa tiếp ứng cho Buôn Ma Thuột, nhưng khi các căn cứ ở mặt đất đã bị mất thì quân lính đổ bộ cũng trở nên vô hiệu. Chúng giống hệt đám lá mùa thu khi gặp gió, tuy ào ào rơi đầy trời nhưng chỉ là những đám lá đã lìa cành. Khi xuống đất dù có cụm lại thành từng đám nhưng tinh thần hoang mang dao động vì không được chi viện của pháo binh, xe tăng và máy bay, nên không khác gì con mồi tự dẫn xác vào cái bẫy của quân ta đã giương sẵn. Vì vậy khi chiến dịch diễn ra, các trận vây đánh của quân ta ở khu vực Chư Cúc, Phước An đã kết thúc nhanh chóng, số phận các cánh quân chủ lực của Quân khu 2 ngụy vừa lật đật từ Bắc Tây Nguyên xuống đã được định đoạt. Chúng đã tiêu tan luôn hy vọng “tái chiếm Buôn Ma Thuột bằng mọi giá” như Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân khu 2 kêu gào. Về so sánh lực lượng, ta đã tạo ưu thế tuyệt đối khi đưa 3 sư đoàn 10, 320, 316 để đánh Buôn Ma Thuột. Cùng với quyết tâm cao của quân và dân Tây Nguyên, rõ ràng ở trận mở màn chiến cục Xuân 1975 chúng ta thắng địch cả 3 yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Thế bố trí chiến lược của địch trên trục Đường 14 từ Kon Tum đến Bình Phước tạo thành hình trận theo trục dọc nặng ở hai đầu. Đầu phía Bắc được bố trí toàn bộ lực lượng quân sự bao gồm Sở chỉ huy Quân khu 2-Quân đoàn 2, Sư đoàn 6 không quân, pháo binh, xe tăng, toàn bộ Sư đoàn 23 và các liên đoàn biệt động quân. Phía Nam là các tỉnh từ Gia Nghĩa đến Bình Phước là địa bàn chiến lược nối Tây Nguyên với Sài Gòn và vì vậy Buôn Ma Thuột là điểm giữa của chiếc đòn gánh đỡ cho hai đầu trục chiến lược 14. Nếu ta tiến công vào một đầu đòn gánh sẽ phải đánh vào lực lượng mạnh của địch, nhưng hình trận của chúng chỉ có thể bị lệch, chứ không vỡ ngay. Nhưng khi ta đánh vào Buôn Ma Thuột tức là đánh vào điểm tựa của hai đầu đòn gánh thì dù chỉ dùng một lực nhỏ, nhưng công lợi gấp đôi, lập tức hình trận của địch bị cắt làm hai và gây ra đổ vỡ ở hai đầu. Thực tiễn chiến sự từ ngày 10-3-1975 đã diễn ra đúng như vậy. Thất bại của địch ở Buôn Ma Thuột và Tây Nguyên đã cuốn theo sự đổ vỡ toàn bộ thế trận chiến lược của chúng từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau, tạo thời cơ để ta tổ chức các đòn tiến công tiếp theo đập tan chế độ tay sai của Mỹ ở miền Nam, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bằng chiến cục Xuân 1975 trong 50 ngày đêm kể từ 10-3-1975. Kho tàng nghệ thuật Quân sự Việt Nam có thêm một bài học lịch sử quý giá về nghệ thuật chọn mục tiêu chiến lược ở những giai đoạn quan trọng, ở những thời điểm lịch sử để tạo ra những bước ngoặt lớn trong chiến tranh nói chung cũng như trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nếu xảy ra.
Thiếu tướng NGUYỄN NHƯ HUYỀN, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu
(1) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi ký, trang 1208.
(2) Sách đã dẫn, trang 1215