Đó là loại tên lửa vác vai do Liên Xô (trước đây) sản xuất, tên gọi là 9K32 Strela-2, có nghĩa là “Mũi tên”, bộ đội ta gọi là A-72. Tên lửa có kích thước dài 1,4m, đường kính 70mm, nặng 9,97kg, khi bắn vác trên vai, tầm bắn của A-72 là 500 đến 5.500m. Tên lửa A72 áp dụng nguyên lý đầu dò tầm nhiệt, bám theo luồng khí xả của động cơ máy bay hoặc sức nóng của động cơ trực thăng.

Một người lính Nga với ống phóng Strela. Ảnh internet

Tên lửa A-72 (Mỹ-ngụy gọi là SA-7A) xuất hiện năm 1972, trong chiến dịch Quảng Trị. Những năm sau đó, A-72 đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng của Quân giải phóng, đặc biệt trong việc chống máy bay cường kích và trực thăng của Mỹ-ngụy. Trong hồi ký của mình, các phi công ngụy sau năm 1975 di tản sang một số nước đều nhắc tới “tên lửa tầm nhiệt SA-7A” với thái độ lo ngại, đáng nể.

Huỳnh Hữu Nghị, nguyên phi đội trưởng không quân, phi đoàn 213 ngụy, trong bài “Những trận đánh không tên” viết: “Hệ thống phòng không của đối phương dày đặc như cây rừng, gồm đủ loại từ trung liên Tiệp Khắc, đến RPD, cao xạ các cỡ, tên lửa cá nhân SA-7A… nhằm ngăn chặn không quân Việt Nam Cộng hòa. Phi cơ trực thăng, máy bay vận tải, ném bom… bất cứ loại nào rơi vào vòng lưới lửa đó, không tan thây cũng nát cánh… Trong vòng tử địa, chúng tôi nghĩ đến vệt khói xanh của SA-7A nhanh như cắt từ rừng núi âm u phóng lên phi cơ… Chúng tôi bay thấp, tránh được tầm ngắm của cao xạ, mặc dù dễ hứng đạn của vũ khí hạng nhẹ, nhưng còn hơn bị lãnh hỏa tiễn SA-7A”.

Trong bài “Vĩnh biệt Nha Trang”, Vĩnh Hiếu, nguyên sĩ quan không quân ngụy viết: Tháng 3-1975, tại khu vực đèo Ma Đrắc, phi công Huỳnh Râu điện cho tổ bay: “Hãy tác xạ vào đám rừng bên sườn đồi, đừng vào gần, coi chừng SA-7A”. Nghe vậy, tất cả các giác quan của tôi bừng dậy như chạm vào luồng điện. Cách đó ít tuần, một chiếc máy bay của Phi đoàn 219 vừa lãnh một trái SA-7A, sát thủ của trực thăng. Ở một bài khác, Vĩnh Hiếu viết: “Khoảng 10 giờ sáng 29-4-1975, Phi đoàn 215 lệnh cất cánh 3 trực thăng võ trang bay vòng quanh phi trường. Trước đó, một chiếc AC-119 đã bị hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7A bắn rớt, chứng tỏ đối phương đã tiến sát thủ đô, làm chủ chiến trường…”.

Là vũ khí do Liên Xô viện trợ, tên lửa A-72 trong tay các xạ thủ Việt Nam đã phát huy cao hiệu quả tác chiến. Tên lửa A-72 của Binh đoàn Hương Giang tham gia chiến dịch tháng 4-1975, bằng một phát đạn A-72, đồng chí Lê Đại Cương bắn rơi tại chỗ một máy bay phản lực F.5E bổ nhào ném bom, bảo vệ đội hình của binh đoàn. Xạ thủ Nguyễn Văn Thoa, thuộc Đại đội 3, Tiểu đoàn chủ lực 172 Phòng không, với tên lửa vác vai A-72 đã bắn rơi tổng cộng 13 chiếc máy bay địch, trong đó có chiếc máy bay cuối cùng của Mỹ-Ngụy bị bộ đội ta bắn hạ.

TRẦN DANH