QĐND Online - Tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai, thực dân Pháp xác định Tây Bắc là một trong những địa bàn chiến lược quan trọng cần chiếm ngay. Chính vì vậy, cùng thời gian (ngày 23-9-1945), chúng cho quân núp bóng quân đội Anh dưới danh nghĩa quân đội Đồng Minh gây hấn ở Sài Gòn, đồng thời cho một số tên sĩ quan thực dân nhảy dù xuống Tây Bắc và Lào. Tiếp đó, vào tháng 11-1945, hai tiểu đoàn quân Pháp chạy trốn quân đội Nhật trước đây, từ Vân Nam (Trung Quốc), đem theo tên phản động người Thái là Đèo Văn Long, kéo vào Lai Châu. Đây là cuộc xâm nhập đầu tiên của quân Pháp vào miền Bắc sau khi ta giành được chính quyền. Đầu năm 1946, sau khi chiếm đóng Lai Châu, được tăng viện, địch đánh rộng ra với ý đồ chiếm toàn bộ Tây Bắc, cô lập căn cứ Việt Bắc về phía Tây, uy hiếp Đồng bằng Bắc Bộ, làm bàn đạp xâm nhập Thượng Lào, khóa chặt đoạn biên giới Việt - Trung.

Đứng trước tình hình ấy, Hội nghị Quân sự lần thứ nhất (tháng 1-1947) đã nhận định: “Căn cứ địa rừng núi miền Tây Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có một giá trị chiến lược rất quan trọng đối với miền Tây Bắc Việt Nam và cả miền Bắc Đông Dương”. Bởi vậy, phải đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền, “tiến tới chiến tranh nhân dân, xây dựng căn cứ địa để mở rộng khu vực tự do”. Trung đoàn 52 - Tây Tiến, được thành lập ngày 27-2-1947, theo quyết định của Bộ Tổng Chỉ huy. Trong thư gửi cho cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn Tây Tiến, Bộ Tổng Chỉ huy nêu rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ mà Trung đoàn đảm nhiệm: “Miền Việt –Tây đối với nước ta có một vị trí chiến lược rất quan trọng. Hùng cứ được vùng đó, không những quân địch ở vào cái thế “cứ cao lâm hạ” có thể uy hiếp hậu phương của chúng ta, mà chúng lại mong thực hiện cái âm mưu ác độc “dĩ Việt chế Việt”, chia rẽ các dân tộc thiểu số, lập bộ đội người Việt thiểu số để tiến đánh chúng ta. Mỗi tấc đất miền Tây là một tấc đất của Tổ quốc Việt Nam. Mỗi một đồng bào miền Tây là một người dân nước Việt. Bảo vệ được lãnh thổ và nhân dân miền Tây tức là gián tiếp bảo vệ được đại hậu phương của chúng ta, góp một phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng”.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng Chỉ huy, tại Mặt trận miền Tây, ta bố trí một lực lượng nhỏ kiềm chế địch ở Sơn La; các lực lượng còn lại tập trung tiến công địch ở Sầm Nưa. Bộ đội ta từ Nghệ An, Thanh Hóa sang, từ Tây Bắc khép vào, hình thành hai gọng kìm kẹp chặt quân địch tại Sầm Nưa, cắt đứt sự liên hệ của chúng với đồng bọn ở Bắc Lào. Các cuộc tiến công của bộ đội Tây Tiến phát triển tương đối thuận lợi. Cuối tháng 2-1947, các đơn vị đồng loạt nổ súng đánh vào các vị trí Ba Dom, Chiềng Công, Sốp Nao, Mường Pun và tiếp đó đã đánh các vị trí Mường Nao, Sầm Tớ, nhanh chóng làm chủ tuyến sông Mã và Sầm Tớ. Trong tháng 3-1947, ta thọc sâu vào bao vây Sầm Nưa. Nhân dân Lào tham gia tiếp tế, tải thương, dẫn đường, nắm địch, hết lòng giúp đỡ bộ đội ta đánh giặc. Bộ đội Việt Nam mang tình cảm quốc tế vô sản trong sáng, chấp hành đầy đủ chính sách, giữ nghiêm kỉ luật, được các tầng lớp nhân dân Lào yêu thương, quý mến, đùm bọc. Để gỡ thế bị uy hiếp nghiêm trọng cho các lực lượng ở Sầm Nưa, ngày 15-4-1947, địch mở các cuộc hành quân nhằm mở rộng phạm vi chiếm đóng, nối liền vùng chiếm đóng ở tây Bắc Bộ với Hà Nội. Cuộc hành quân được tiến hành theo hai hướng: từ Hà Nội lên và từ Sơn La, Yên Châu xuống. Đồng thời quân Pháp nhảy dù xuống Mộc Châu. Các lực lượng vũ trang ta tổ chức nhiều trận phục kích trên đường số 6 và số 12, đánh địch ở Dốc Cun, phục kích địch ở Lương Sơn gây cho chúng nhiều thiệt hại. Đến tháng 5-1947, địch điều quân giải vây cho Sầm Nưa. Do không đủ lực lượng để giữ cả một vùng rộng lớn, ta buộc phải rút khỏi Chợ Bờ, Lương Sơn, nhằm tập trung lực lượng phá vỡ âm mưu mới của địch (đánh lên Việt Bắc – Thu Đông 1947).

Cuộc chiến đấu của bộ đội ta trên Mặt trận Tây Tiến những năm đầu kháng chiến chống Pháp gặp phải rất nhiều khó khăn và thử thách to lớn. Do xa hậu phương, địa thế miền Tây hiểm trở, rừng núi trùng điệp, dân cư thưa thớt, nguồn bổ sung tiếp tế tại chỗ rất ít, chiến sĩ ta phần đông từ đồng bằng, thành phố lên, lần đầu hoạt động trên chiến trường rừng núi, không quen với khí hậu, thời tiết khắc nghiệt của vùng cao nên đau ốm nhiều. Những cuộc hành quân vào mặt trận rất gay go, gian khổ, nhiều cán bộ, chiến sĩ vừa đi vừa phải chống chọi với cơn sốt rét. Có đại đội đến 70% quân số bị đau ốm song thuốc chữa bệnh lại không có. Nhưng với tinh thần yêu nước nồng nàn, đức hi sinh và lòng quả cảm, sự giúp đỡ tận tình, lòng yêu thương vô bờ bến của bà con các dân tộc thiểu số anh em, bộ đội ta đã vượt lên tất cả để giành thắng lợi. Cuộc tiến công của Bộ đội Tây Tiến thể hiện tinh thần tích cực, chủ động tiến công nhằm giành quyền làm chủ ở một địa bàn chiến lược quan trọng, đã gây cho địch nhiều khó khăn, lúng túng, nhất là lúc chúng đang bị giam chân ở thành thị. Bằng những thắng lợi mới giành được trong các cuộc chiến đấu, chúng ta đã thiết thực tạo thêm điều kiện để bạn Lào xây dựng cơ sở, phát triển lực lượng kháng chiến.

THU TRANG