QĐND - Vào một đêm tối cuối năm 1964, những trận gió mùa Đông Bắc tràn về, mang cái rét của phương Bắc về theo, cuộc tiễn đưa Tàu 41 lên đường làm nhiệm vụ được tiến hành tại một bên cảng của thành phố biển. Dưới trời mưa phùn, gió bấc, các đồng chí Tư lệnh Quân chủng, Đoàn trưởng và Chính ủy đoàn ôm hôn thắm thiết cán bộ, chiến sĩ tàu: "Chúc Tàu 41 hành trình thuận buồm xuôi gió - Bộ tư lệnh chờ đón tin thắng lợi báo về!". Tình cảm hậu phương lớn làm ấm lòng các chiến sĩ trên đường về tiền tuyến lớn.
Tàu 41 hành trình vào mùa thời tiết không thuận lợi. Sau ba ngày vượt sóng to gió lớn, lách tránh các tuyến tàu tuần tiễu của địch, chiều 30 tháng Chạp, tàu chuyển hướng vào bờ. Đây là tuyến đi căng thẳng nhất suốt lộ trình.
Toàn tàu dồn hết sức lực, tinh thần, ý chí quyết tâm và lòng dũng cảm sẵn sàng đối phó với địch bất cứ lúc nào. Thành bại của chuyến đi quyết định ở hướng đi này. Bữa cơm "Tất niên" được đồng chí Thuyền phó sắp xếp cho toàn tàu ăn trước 12 giờ để kịp làm công tác chuẩn bị chiến đấu. Cũng thịt mỡ, dưa hành, nhưng thiếu câu đối đỏ. Không nêu, không pháo, có bánh chưng xanh, nhưng để dành khi cập bến. Toàn tàu đang ăn cơm, bỗng từ đài quan sát, chiến sĩ trực canh báo cáo: "Mạn phải 300, cự ly 3 hải lý, phát hiện có 2 tàu địch đang di chuyển về phía Nam!". Lệnh chuẩn bị chiến đấu được phát ra. Toàn tàu về vị trí chiến đấu. Lớp ngụy trang trên những khẩu súng được kiểm tra, sửa lại, để vừa che mắt địch, vừa có thể nhanh chóng tung ra khi có tình huống chiến đấu. Qua ống nhòm có bội số cao, tôi nhìn rõ hai tàu tuần tiễu của địch. Phải tránh! Tôi cho tàu thay đổi hướng đi song song để tránh tàu địch, tạo khoảng cách xa để thời gian tiếp xúc rất ít. Nhìn đồng hồ đã 16 giờ rồi, chỉ còn 8 tiếng đồng hồ nữa thôi tàu phải có ở Vũng Rô.
 |
Một góc Vũng Rô hôm nay. Ảnh tư liệu. |
Sau khi xác định vị trí trên bản đồ, đồng chí Thuyền phó báo cáo: "Tàu ta cách Đá Bia hơn 60 hải lý nữa, khả năng vào bến trễ giờ!". Nhớ câu chuyện cổ tích mà tôi được đọc cách đây rất lâu, chuyện cô bé thông minh, học hành rất giỏi, nhưng vì hoàn cảnh gia đình khó khăn được cô Tiên hiện lên giúp đỡ. Cô cho em ba điều ước để em lựa chọn: Một là học hành giỏi; hai là cha mẹ sống lâu bất tận và điều thứ ba là em sẽ trở thành vợ của Hoàng tử con vua suốt đời sung sướng. Nhưng cô bé chỉ nhận điều ước thứ nhất và thứ hai. Như cô bé, lúc này tôi chỉ muốn có hai điều ước: Một là trời mau tối để con tàu không phải phơi mình trên biển nhiều giờ dễ bị địch phát hiện; hai là tốc độ tàu nhanh hơn chút nữa để vào bến không trễ giờ. Nhưng việc lặn mọc, tối sớm của mặt trời hoàn toàn do chu kỳ quay của Trái Đất và Mặt trời, còn tốc độ máy tàu thì do nhà sản xuất đã ấn định sẵn, làm sao thay đổi được. Tôi cho mời đồng chí máy trưởng lên đài chỉ huy và quyết định sử dụng tốc độ dự bị. Ước mãi rồi cũng đến lúc hoàng hôn bao trùm khắp mặt biển. Ông bà ta nói: "Tối như đêm 30", thật quả không sai.
Đúng 23 giờ 50 phút, tàu chúng tôi thả trôi giữa Vũng Rô. Tôi cho thả xuồng và sử dụng người vào bến tìm bộ phận đón. Đang loay hoay thả xuồng thì cũng vừa lúc thuyền của các đồng chí ở bến cặp mạn tàu. Cán bộ, chiến sĩ của tàu ôm hôn cán bộ, chiến sĩ của bến. Niềm vui ngập tràn vô tận. Tôi ôm chặt anh Sáu (Bí thư Tỉnh ủy) mà hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn ngào không nói nên lời. Bỗng từ phía bờ, hàng loạt súng pháo đủ các cỡ nổ vang đan chéo bầu trời. Những chiếc đèn dù xanh đỏ từ đồn Pơ Tý phụt lên treo lơ lửng một khoảng trời Vũng Rô.
Lộ rồi sao? Địch đã phát hiện được tàu ta chăng?
Từ dưới phòng báo vụ, chiếc đài bán dẫn vang lên lời Bác Hồ chúc Tết.
Giao thừa! Phút Giao thừa Xuân 1965 đã tới. Phú Yên ơi! Chúng con đã về đây! Về giữa mùa xuân tràn đầy sức sống!
Giá như ở một hoàn cảnh khác, thời điểm khác thì cuộc vui còn có thể kéo dài. Không ai muốn rời nhau, nhưng làm sao khác được khi mà công việc trước mắt còn quá bộn bề. Tàu phải đưa vào sát mép núi và ngụy trang kín đáo trước khi trời sáng.
Mọi công tác được tiến hành khẩn trương. Sau khi đã bố trí các tổ bám chốt các đồn địch và Mũi Điện để kịp thời đối phó, cuộc liên hoan mừng Tết Ất Tỵ, mừng ngày tàu và bến gặp nhau được tiến hành trên nắp khoang hầm hàng số hai dưới vòm lá ngụy trang kín đáo. Thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng, bánh tét, kẹo, bia và thuốc lá được bày ra. Cành đào Nhật Tân của Hà Nội bên nhành mai vàng của núi Đá Bia (Phú Yên) khoe sắc, càng tăng thêm hương vị của mùa xuân-mùa xuân ở chiến trường.
Trong niềm vui chứa chan tình cảm tôi thay mặt cán bộ, chiến sĩ Tàu 41 chúc Tết các đồng chí cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, chiến sĩ và dân công ở bến Vũng Rô. Chúng tôi cùng nâng cốc chúc mừng thắng lợi, chúc sức khỏe anh Sáu (Bí thư Tỉnh ủy) và các đồng chí đang có mặt tại bến; chúc quân và dân tỉnh nhà năm mới giành được những thắng lợi to lớn hơn như lời chúc Tết của Bác Hồ. Tiếng pháo tay thay pháo Tết nổ vang. Anh Sáu (Bí thư Tỉnh ủy) giục, cô gái ngồi bên cạnh mặt ửng hồng đứng lên thay mặt đồng bào địa phương chúc Tết cán bộ, chiến sĩ Tàu 41. Cô gái nói: "Đảng, Bác Hồ, đồng bào miền Bắc lo cho miền Nam từng khẩu súng, viên đạn, bát cơm, viên thuốc. Các anh thủy thủ đã vượt qua sóng to, gió lớn, đối mặt với quân thù để vận chuyển hàng chi viện cho miền Nam. Quê hương Phú Yên quyết xứng đáng với tình nghĩa cao cả đó!".
Nghẹn ngào, xúc động, lắng đọng nghĩa tình!
Tối mồng Một Tết, tàu cùng bến bốc dỡ hàng. Chiếc cầu tàu làm tạm bằng cây rừng như mọi lần trước, nay không đủ sức cho số đông người đi lại, nên hầu hết anh chị em dân công và du kích các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Thịnh, Hòa Tân… phải dầm mình dưới nước mới kịp chuyển hàng. Công việc tấp nập, khẩn trương. Phía Đèo Cả, thỉnh thoảng có một vài ánh đèn pha le lói của những chiếc xe lao dốc cùng với những tiếng nổ lạc lõng từ các bốt đồn địch bắn cầm canh trấn an cho giấc ngủ đầu năm của những kẻ xâm lược. Mặc! Không khí lao động, sẵn sàng chiến đấu ở bến Vũng Rô vẫn tấp nập, khẩn trương. Hàng bốc dưới tàu lên là vũ khí, thuốc men. Hàng trên bờ đưa xuống tàu là cát của Vũng Rô để rằn tàu, giữ được sự ổn định khi tàu ra khơi gặp phải sóng to, gió lớn.
Ba giờ sáng ngày mồng Hai Tết Ất Tỵ, Tàu 41 rời bến Vũng Rô. Anh Sáu (Bí thư Tỉnh ủy) ôm chặt tôi, cái hôn tiễn đưa lưu luyến và xúc động. Tay siết chặt tay. Người ra đi và người ở lại đều bùi ngùi. Những hàng nước mắt tuôn trào, những lời chúc lên đường thuận buồm xuôi gió, ở lại mạnh khỏe, chiến đấu hăng say, hứa hẹn sẽ có ngày gặp lại…
Tôi ấn mạnh tay chuông, con tàu lướt sóng ra khơi. Phía sau con tàu là bến Vũng Rô kiên cường-dải đất Phú Yên quê hương chúng tôi, đó là mùa xuân Ất Tỵ! Thời gian dù đã lùi xa bao nhiêu năm đi nữa, nhưng những kỷ niệm về một cái Tết ở Vũng Rô không bao giờ phai nhạt trong tâm trí của tôi.
-------------
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Kỳ 1)
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Kỳ 2)
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Kỳ 3)
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Kỳ 4)
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Kỳ 5)
(Còn nữa)
Truyện ký của TÔ PHƯƠNG