II. Mở đường vào bến Vũng Rô
QĐND - Từ cuối tháng 11 năm 1964 đến đầu tháng 2 năm 1965, Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh trên cương vị là Phó bí thư chi bộ, thuyền trưởng, đã làm tốt công tác tổ chức, xây dựng quyết tâm, với ý thức sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh. Vì vậy, mà chỉ trong vòng hai tháng đã chỉ huy tàu 41 vào bến Vũng Rô liên tục 3 chuyến, chở gần 200 tấn vũ khí trang bị, thuốc men và 6 cán bộ tăng cường cho bến, đáp ứng kịp thời vũ khí trang bị cho quân và dân 3 tỉnh là Phú Yên, Khánh Hòa và Đắc Lắc đánh giặc.
Đồng chí Hồ Đắc Thạnh sinh ngày 1 tháng 5 năm 1934, quê ở phường 3, thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Chỗ ở hiện nay, 99/2 Chu Văn An, phường 5, Thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Ông nhập ngũ ngày 20 tháng 8 năm 1950, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau ngày 20 tháng 7 năm 1954 kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng Hiệp định Giơ-ne-vơ, ông cùng đơn vị tập kết ra miền Bắc. Năm 1958 trong lúc nhiều đồng đội, có người được đi học nước ngoài, người vào trường sĩ quan Lục quân, Pháo binh, Hóa học... Còn ông thì được thuyên chuyển về công tác ở Quân chủng Hải quân. Ông nghĩ rằng cơ hội mình sẽ trở về miền Nam chiến đấu để giải phóng quê hương như lời hứa trước khi lên đường tập kết ra miền Bắc không còn nữa.
 |
Một con tàu không số của Lữ đoàn 125 đang trên đường vận chuyển hàng vào Nam. Ảnh tư liệu. |
Năm 1962, đang giữa khóa học ở Trường Sĩ quan Hải quân thì Hồ Đắc Thạnh được điều về Đoàn 759 rất khẩn cấp, rất bí mật và ông cũng không biết nhiệm vụ của mình sắp tới sẽ làm gì. Ông được sống biệt lập ở số nhà 83, phố Lý Nam Đế, Hà Nội. Ở đó một thời gian khá dài, lòng dạ vô cùng bồn chồn sốt ruột, mong sao cấp trên sớm giao nhiệm vụ cụ thể để được thực hiện. Vào một buổi sáng mùa đông ông nhận được quyết định xuống tàu làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển. Lúc đó trong lòng ông vô cùng sung sướng và phấn khởi, cho dù nguyện vọng của ông lúc đó là trực tiếp cầm súng chiến đấu trên đất quê hương chưa thành hiện thực; nhưng ông suy nghĩ vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam cũng vô cùng quan trọng, nó cũng góp phần giải phóng quê hương. Từ đó Hồ Đắc Thạnh xác định quyết tâm sẵn sàng nhận và hoàn thành bất cứ nhiệm vụ gì cấp trên giao cho. Đồng chí Hồ Đắc Thạnh đã liên tục bám tàu, đi nhiều chuyến, vào nhiều bến, vượt qua nhiều tình huống khó khăn, phức tạp, luôn xứng đáng với lòng tin tưởng của cấp trên và đồng đội.
Đồng chí Hồ Đắc Thạnh đã cùng với cán bộ chỉ huy 12 lần/chuyến vận chuyển vũ khí trang bị chi viện cho chiến trường miền Nam với khối lượng 800 tấn và 18 cán bộ theo tàu vào tăng cường cho lực lượng vũ trang miền Nam. 10 lần chỉ huy tàu, vận chuyển vũ khí trang bị gián tiếp chi viện chiến trường miền Nam qua cửa sông Gianh và cửa Hội. Cụ thể:
Chuyến thứ nhất vào bến Cà Mau ngày 19-9-1963.
Chuyến thứ hai vào bến Bến Tre ngày 29-11-1963.
Chuyến thứ ba vào bến Trà Vinh ngày 1-1-1964.
Chuyến thứ tư vào bến Cà Mau ngày 1-5-1964.
Chuyến thứ năm vào bến Cà Mau ngày 27-6-1964.
Chuyến thứ sáu vào bến Bến Tre ngày 26-7-1964.
Chuyến thứ bảy vào bến Cà Mau ngày 22-10-1964.
Chuyến thứ tám vào bến Vũng Rô ngày 28-11-1964.
Chuyến thứ chín vào bến Vũng Rô ngày 25-12-1964.
Chuyến thứ mười vào bến Vũng Rô ngày 1-2-1965.
Chuyến thứ mười một vào bến Phổ An, Đức Phổ (Quảng Ngãi) ngày 27-11-1966.
Chuyến thứ mười hai vào bến Cà Mau, bị địch phát hiện, cấp trên cho tàu quay lại.
Đó là hành trình mười hai chuyến làm thuyền trưởng chỉ huy tàu không số chở vũ khí vượt biển chi viện cho chiến trường miền Nam từ năm 1963 đến năm 1966 của đồng chí Hồ Đắc Thạnh.
Trong mười hai chuyến chở vũ khí về miền Nam ấy có ba chuyến tàu không số cập bến Vũng Rô. Trong hồi ức của mình, thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh đã viết khá tỉ mỉ hành trình ba lần ông chỉ huy tàu không số chở vũ khí cập bến Vũng Rô với những cảm nghĩ vô cùng xúc động:
... Chuyến đi Cà Mau thắng lợi vừa về đến Hải Phòng ngày 1 tháng 11 năm 1964. Cán bộ, chiến sĩ tàu 41 đang họp rút kinh nghiệm và tranh thủ nghỉ ngơi sau những ngày vật lộn với sóng to, gió lớn, thì được lệnh: "Đưa tàu về cảng Đồ Sơn để nhận nhiệm vụ". Lúc đó là 16 giờ ngày 10 tháng 11 năm 1964, tôi trao đổi với Thuyền phó Hồng Lỳ và Chính trị viên Trần Hoàng Chiếu: "Tranh thủ cho anh em ăn cơm sớm để lên đường". Đêm mùa đông lạnh buốt và sương mù dày đặc, nên đến 19 giờ tàu mới tới cảng Đồ Sơn. Tàu cập bến, tôi và Chính trị viên Chiếu được xe con chở về Sở chỉ huy Quân chủng. Tại phòng họp đã có mặt các đồng chí Tư lệnh Quân chủng Nguyễn Bá Phát, Chính ủy Hoàng Trà, Đoàn trưởng Đoàn Hồng Phước, Chính ủy Võ Huy Phúc, Chủ nhiệm Chính trị Võ Hành và các sĩ quan tham mưu chuyên trách vận chuyển B: Bộ Tổng tham mưu có Phó cục trưởng Cục Tác chiến B Phan Hàm, Cục trưởng Cục Bảo vệ Kinh Chi và một người nữa là đồng chí Trần Ngọc Quang - người quê ở Phú Yên cùng đi với tàu của tôi lần này.
Một tấm hải đồ tỷ lệ lớn trải rộng trên bàn trước mặt đồng chí Tư lệnh - nhìn trên đó người ta thấy dày đặc những mũi tên xanh, đỏ cùng những ký hiệu minh họa tình hình có liên quan công tác vận chuyển thu thập qua các nguồn tin mới nhất đáng tin cậy.
Buổi họp giao nhiệm vụ sơ bộ chuyến đi bắt đầu. Đã nhiều lần nhận nhiệm vụ, nhưng không biết sao lần này lòng tôi cảm thấy bồi hồi, rộn ràng. Mặc dù đồng chí Tư lệnh chưa nói, nhưng qua tấm hải đồ mà mọi ký hiệu tình hình đều tập trung vào vùng biển tỉnh Phú Yên. Như đoán được ý nghĩ trong lòng tôi, nên sau khi Trưởng phòng Quân báo Kim Sang báo cáo tình hình địch trên biển miền Nam nói chung và tập trung ở vùng biển Nam Trung Bộ, trên bờ thì khu vực tỉnh Phú Yên; đồng chí Tư lệnh nói: "Năm 1963, tàu X chở 20 tấn vũ khí chi viện Khu 5 vào bến Lộ Diêu tỉnh Bình Định. Lần đó tàu đến nơi, chuyển được hàng, nhưng vì sóng to, gió lớn, nên không về hậu phương được, anh em phải phá tàu rồi đi bộ về. Hiện nay, nhu cầu vũ khí ở chiến trường Khu 5 rất bức thiết. Tỉnh ủy các tỉnh ven biển Khu 5 đã cử người mang thư ra Trung ương xin chi viện vũ khí, đang chờ chúng ta. Theo chỉ thị của Trung ương, lần này ta đưa hàng vào bến Vũng Rô (tỉnh Phú Yên). Ngừng một lát, đồng chí nói tiếp: "Vì sao cấp trên và Thường vụ Đảng ủy Quân chủng chọn Vũng Rô làm bến? Vũng Rô là vũng có nước sâu, tàu ra vào không lệ thuộc vào thủy triều; lại nằm kề sát đường sắt và Quốc lộ 1A, nơi địch rất sơ hở, nếu ta biết lợi dụng yếu tố bí mật, bất ngờ thì ta sẽ thắng. Bên cạnh những ưu điểm đó, Vũng Rô là nơi dễ bị địch bao vây, chỉ cần một tàu đứng chặn giữa Mũi Điện và Hòn Nưa là tàu ta khó thoát. Bộ đã điện cho Khu 5 chuẩn bị đón. Tàu của các đồng chí vào có thể gặp bến đón hoặc không gặp, nhưng dù gặp hay không gặp thì đồng chí Trần Ngọc Quang cũng phải ở lại nắm tình hình, tổ chức bến rồi ra sau. Bộ Tham mưu và Thủ trưởng Đoàn chuẩn bị chu đáo để Bộ Tư lệnh Quân chủng có thể giao nhiệm vụ chính thức cho tàu. Từ giờ phút này tàu 41 cách ly với các đơn vị trong Đoàn và bên ngoài".
Những ngày tiếp theo biết bao công việc bận rộn. Cán bộ tàu chúng tôi bò lăn ra nghiên cứu hải đồ, tính toán thủy triều, nhận dạng mục tiêu, tìm hướng đi tránh ra-đa Cù Lao Ré và Chóp Chài. Đồng chí chính trị viên tàu lo công tác Đảng, công tác chính trị.
Chúng tôi vừa khẩn trương chuẩn bị mọi mặt vừa lo đón tiếp anh em quân giải phóng quê ở tỉnh Phú Yên bổ sung về tàu làm thủy thủ. Đó là các đồng chí Lê Kim Tự, Lê Xuân quê ở xã Hòa Hiệp và đồng chí Trần Mỹ Thành, quê ở xã Xuân Thịnh. Các anh vừa trải qua ba tháng vượt đường Trường Sơn ra miền Bắc, thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức chưa được bao lâu, nay lại xuống tàu làm nhiệm vụ chở vũ khí bằng con đường Hồ Chí Minh trên biển để về lại quê hương. Tàu có 21 đồng chí, hầu hết là anh em quê ở tỉnh Phú Yên và Bình Định cùng một số ít anh em ở các tỉnh khác. Trừ 4 đồng chí có vợ con ở miền Nam và đồng chí Trần Ngọc Quang vừa mới có người yêu, số còn lại chưa một ai được "nếm mùi yêu đương".
---------
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Bài 1)
Truyện ký của TÔ PHƯƠNG (Còn nữa)